Lời thú tội của ‘cớm bẩn’ hé lộ bê bối tham nhũng
Được thành lập để chống tội phạm băng đảng, đơn vị cảnh sát Crash cuối cùng lại trở thành “băng đảng đáng gờm nhất” của thành phố Los Angeles.
Một ngày đầu tháng 3/1998, hơn 2,5 kg ma túy bị rút khỏi kho lưu trữ của phòng cảnh sát thành phố Los Angeles và không bao giờ được trả lại. Số ma túy được lưu làm chứng cứ xuất trình trước tòa, nhưng vì vụ án liên quan đã khép lại, mẫu vật này lẽ ra sẽ không rời kho cho đến lúc bị tiêu hủy.
Người lấy cocaine ký tên là Joel Perez, trùng tên với một người trong lực lượng cảnh sát thành phố Los Angeles. Nhưng sau khi điều tra viên xác minh, Joel được kết luận là bị mạo danh.
Lúc này, nhân viên kho chứng cứ mới nhớ ra có một cảnh sát khác tên Rafael Perez từng lấy lượng lớn cocaine khỏi kho. Sự chú ý của điều tra viên lập tức dồn hết lên Rafael Perez, 32 tuổi, cảnh sát viên với thâm niên 9 năm trong ngành, hiện làm cho đơn vị Crash, thuộc phân khu Rampart.
Crash là đơn vị cảnh sát tinh nhuệ gồm 18 phân khu được phòng cảnh sát thành phố Los Angeles thành lập từ những năm 1980 để trấn áp tội phạm băng đảng. Trong 18 đơn vị này, nổi bật nhất là đơn vị phụ trách khu phố Rampart, nơi có tình hình đặc biệt phức tạp vì bị hơn 60 băng đảng chia nhau kiểm soát. Trong nhiều năm, đơn vị Crash nói chung và phân khu Rampart nói riêng có thể được ví như quả đấm thép đánh vào các băng đảng.
Do có trụ sở tách biệt với đồng nghiệp, cảnh sát phân khu Rampart dường như hoạt động theo quy tắc riêng. Thông thường, mỗi cảnh sát Los Angeles được cấp chiếc chìa khóa có thể ra vào mọi đồn cảnh sát trong thành phố, trên chìa dập số 999, nhưng vào tay phân khu Rampart, con số này được dập lại thành 888. Trong khi đồng nghiệp các đơn vị khác phải mặc cảnh phục, thành viên Rampart lại chuyên mặc thường phục. Ngoài ra, nguyên tắc mọi người ngầm hiểu với nhau là nếu muốn vào Rampart, người ngoài phải được thành viên đứng ra bảo trợ.
Khi ấy, Rafael đang là “siêu sao” của phân khu Rampart vì am hiểu về băng đảng và thành thạo tiếng Tây Ban Nha. Một cảnh sát từng làm cùng Perez kể lại trong ca trực tối, mọi người đôi khi cược xem đơn vị nào sẽ tìm được súng trên người thành viên băng đảng. Những lần như vậy, phần thắng luôn thuộc về Perez.
Đằng sau thành tích công việc, Rafael thể hiện bản thân rất thích những thứ xa xỉ, thường xuyên chơi tiệc, và rất trăng hoa. Với mức lương của cảnh sát, những điều trên vẫn hoàn toàn khả thi nếu Rafael độc thân. Nhưng vì Rafael đã lấy vợ và có con, anh ta ắt phải có nguồn thu nhập nào khác.
Một sự kiện cũng khiến mức độ khả nghi của Rafael tăng lên gấp bội. Vài tháng trước khi vụ trộm cocaine xảy ra, David Mack, đồng nghiệp và bạn thân của Rafael trong phân khu Rampart, bị bắt giữ vì cướp của ngân hàng hơn 700.000 USD. Trùng hợp, chỉ hai ngày sau vụ cướp, Mack và Rafael cùng tới thành phố Las Vegas để ăn chơi. Rafael bị nghi lái xe giúp Mack đào tẩu nhưng không đủ chứng cứ.
Rà soát lịch sử cuộc gọi, điều tra viên ngạc nhiên khi thấy rằng Rafael đôi khi gọi hơn 100 cuộc một ngày. Ngày xảy ra vụ trộm cocaine, Rafael đã gọi cho bạn gái, kẻ bán ma túy không thường xuyên, vào trước và sau thời điểm số cocaine được lấy ra khỏi kho. Cuối tháng 8/1998, Rafael bị bắt giữ.
Chứng cứ buộc tội Rafael tưởng chừng rất rõ ràng nhưng khi phiên tòa diễn ra, công tố viên mới phát hiện việc truy tố không dễ dàng như vậy. Sau những câu trả lời đầy tự tin của Rafael, phiên tòa kết thúc mà không có bản án được đưa ra vì bồi thẩm đoàn không thể thống nhất ý kiến. Ngày 23/12/1998, thẩm phán ra quyết định tái thẩm.
Video đang HOT
Quá trình chuẩn bị cho phiên tái thẩm, điều tra viên bắt đầu lục lại hồ sơ tài chính và phát hiện Rafael có nhiều lần gửi tiền ngân hàng không thể được giải thích. Căn nhà của Rafael được chỉnh trang toàn diện, xe hai vợ chồng cũng thuộc loại sang, trong khi thu nhập từ công việc cảnh sát chỉ là 58.000 USD.
Rà soát hàng trăm chứng cứ trong kho lưu trữ, điều tra viên cuối cùng cũng tìm thấy 11 lần lấy đồ khả nghi, trong đó 6 gói cocaine đã bị tiêu hủy đúng quy trình. Quá trình giám định 5 gói còn lại cho kết quả “ma túy” bên trong gói thực chất là bột làm bánh. Chữ viết trên biên bản ký nhận chứng cứ được chuyên viên phân tích kết luận là thuộc về Rafael. Lúc này, việc Rafael trộm ma túy khỏi kho lưu trữ là không thể chối cãi.
Bằng thái độ cứng rắn, công tố viên đe dọa sẽ khởi tố vợ Rafael, nhân viên làm việc cho phòng cảnh sát Los Angeles, với cáo buộc biết rõ chồng phạm tội. Với con nhỏ ở nhà, gã “cớm bẩn” không muốn vợ phải ngồi tù nên chọn cách thỏa thuận nhận tội.
Ngày 8/9/1999, Rafael đồng ý nhận mức án 5 năm tù, và miễn truy cứu trách nhiệm cho vợ. Đổi lại, hắn ta sẽ khai ra sai phạm của đồng nghiệp trong phân khu Rampart. Nội dung Rafael tiết lộ trong tổng cộng hơn 50 giờ thẩm vấn khiến ngay cả những cảnh sát cứng cỏi của thành phố Los Angeles cũng phải chấn động.
Do hợp tác với nhà chức trách, Rafael Perez lãnh án 5 năm tù và được ra tù sớm vào năm 2001. Ảnh: AP.
Rafael khai hắn đã là “cớm bẩn” từ lần bắt ma túy đầu tiên trong lực lượng Crash. Lần ấy xảy ra vào năm 1995, hắn và đồng nghiệp thu giữ tiền mặt của kẻ bán ma túy và giữ làm của riêng.
Đặc biệt, Rafael kể từng cùng đồng nghiệp vô cớ bắn trọng thương Javier Ovando, 19 tuổi, thành viên băng đảng, vào tháng 10/1996. Khi nhận ra Ovando không mang theo súng, Rafael cài súng vào người đối phương để lấy lý do nổ súng để tự vệ. Sau sự việc, Ovando bị liệt một phần cơ thể và nhận án 23 năm tù dựa chủ yếu vào lời khai đầy thuyết phục của Rafael.
Theo Rafael, trong phân khu Rampart, việc gài bẫy thành viên băng đảng về tội danh ma túy và vũ khí là thường xuyên xảy ra, thậm chí còn nhận được sự chấp thuận của sĩ quan chỉ huy. Nếu tìm được súng hoặc ma túy rơi trên phố, cảnh sát thuộc Crash sẽ không báo cáo về trụ sở mà giữ lại để chờ thời cơ gài bẫy nghi phạm. Rafael nói không thấy “tồi tệ” khi gài bẫy nghi phạm vì đang loại bỏ chúng khỏi đường phố.
Sai phạm của Rafael và đồng nghiệp không dừng lại ở việc bắt giữ người trái pháp luật. Trong một lần đuổi theo nhóm thành viên băng đảng vào năm 1996, một số cảnh sát Crash nổ súng bắn trúng nghi phạm 21 tuổi vào ngực và lưng. Thay vì gọi cứu thương, những cảnh sát này để súng vô chủ bên cạnh nghi phạm rồi bình thản bàn bạc để thống nhất lời khai. Khi xe cứu thương tới nơi, nghi phạm đã tử vong, trong khi cả nhóm cảnh sát đi bar ăn mừng, Rafael cho biết.
Với khẩu hiệu không chính thức là “Đe dọa những kẻ đe dọa người khác”, các đơn vị của Crash còn có hệ thống treo thưởng cho cảnh sát viên sau mỗi cuộc đấu súng với thành viên băng đảng. Người nào bắn trúng đối phương sẽ được tặng tấm thẻ có hình đôi Át đen và đôi 8 trong bộ bài Tây, biểu tượng của dãy lá bài được cho là xui xẻo trong trò poker. Đối phương trúng bao nhiêu viên đạn, hình vẽ được thêm bấy nhiêu vỏ đạn. Còn có loại thẻ dành cho người bắn chết đối phương.
Dựa vào lời khai của Rafael Perez, cuộc điều tra sơ bộ vào bê bối Rampart cho thấy có hơn 70 cảnh sát có dấu hiệu sai phạm. Trong số này, nhà chức trách có đủ chứng cứ để đưa 58 người ra trước hội đồng kỷ luật nội bộ. Tuy nhiên, chỉ 24 người bị kết luận có sai phạm, trong đó 12 người bị tạm đình chỉ công tác, 7 người khác bị buộc phải từ chức hoặc nghỉ việc, 5 bị sa thải. Đây được coi là bê bối tham nhũng tồi tệ nhất trong lịch sử phòng cảnh sát thành phố Los Angeles, theo tờ Los Angeles Times.
Kết quả cuộc điều tra vào việc cảnh sát làm giả chứng cứ và khai man khiến 106 bản án hình sự bị hủy bỏ. Sau khi bê bối Rampart bị hé lộ, thành phố Los Angeles phải đối mặt với hơn 140 vụ kiện dân sự và tiêu tốn ước tính 125 triệu USD tiền hòa giải. Riêng Javier Ovando, người bị Rafael và đồng nghiệp gài bẫy, nhận 15 triệu USD, bên cạnh việc được hủy bản án.
Tháng 3/2000, Crash, đơn vị cảnh sát tinh nhuệ một thời, chính thức bị giải thể. Trong sách sử bang California của Kevin Starr, sử gia và chủ tịch thư viện tiểu bang này, đơn vị cảnh sát Crash được đánh giá là đã trở thành “băng đảng đáng gờm nhất trong thành phố Los Angeles”.
Sau bê bối, Bernard Parks, giám đốc phòng cảnh sát thành phố Los Angeles, không còn được thị trưởng James Hahn tái bổ nhiệm vào năm 2002. Bê bối này cũng được cho là yếu tố quan trọng khiến chính thị trưởng Hahn thất cử vào cuộc chạy đua giữ chức vào ba năm sau.
Hiện, nhiệm vụ của Crash được Đơn vị Băng đảng và Ma túy của phòng cảnh sát thành phố Los Angeles đảm nhiệm. Yêu cầu đầu vào tối thiểu của đơn vị này cao hơn so với đơn vị tiền nhiệm, bao gồm việc cảnh sát phải có đủ thâm niên và nhận ít đơn khiếu nại.
Lời thú tội trên giường bệnh khi tưởng sắp chết
James Washington tưởng sắp chết nên trong lúc cấp cứu nói ra việc giết người từ 14 năm trước để được "nhẹ lòng".
Khoảng 11h30 ngày 5/7/1995, tổng đài 911 của thị trấn Ashland, bang Tennessee, nhận được cuộc gọi báo cháy và án mạng tại căn nhà bỏ hoang gần đường cao tốc. Lực lượng cứu hỏa mau chóng tới hiện trường và khống chế được ngọn lửa. Đúng như trình báo, trong nhà có một thi thể cháy xém.
Nạn nhân là phụ nữ, bị đánh trước khi thiêu. Kết quả đối chiếu dấu vân tay cho thấy người chết là Joyce Goodnur, 35 tuổi, trú tại thành phố Nashville gần đó. Joyce từng bị bắt giữ vì bán cocaine nên mới có vân tay trong cơ sở dữ liệu. Từ đó tới nay, Joyce sống tại cơ sở dành cho người vô gia cư.
Ban đầu, cuộc điều tra tập trung vào hai người đàn ông bị nhìn thấy vội vã rời hiện trường. Tại cơ quan điều tra, hai người này được xác định là bố con. Họ đang lái xe thì thấy khói bốc lên từ căn nhà bên đường nên dừng lại giúp đỡ. Khi phát hiện dưới thảm có thi thể, hai người sợ quá nên chạy đi tìm điện thoại công cộng để trình báo. Lịch sử nghe gọi của cột điện thoại công cộng xác nhận điều này nên hai người được loại khỏi diện tình nghi.
Bạn trai Joyce cho biết lần cuối gặp nạn nhân là trước khi đi làm vào lúc 2h ngày hôm đó. Theo đồng nghiệp làm chứng, người bạn trai được xác định đã ở tại nơi làm việc suốt ngày nên không thể gây án.
Điều tra những người quen biết với Joyce, cảnh sát tìm được rất ít người khả nghi. Nhưng một trong số đó khiến cảnh sát rất chú ý, là James Washington. Anh ta quen Joyce được một thời gian, đủ để khiến người xung quanh tưởng rằng hai người có quan hệ tình cảm.
James Washington. Ảnh: The Global Dispatch.
Washington khai sáng hôm đó khoảng 9h đã mua dâm Joyce rồi chở qua nhà bạn. Nạn nhân xuống xe và nói sẽ quay lại sau 30 phút. Chờ một tiếng không thấy Joyce quay lại, Washington đã rời đi.
Một nhân chứng khác cũng cho biết khoảng 10h30 hôm ấy lái ôtô qua hiện trường và thấy chiếc xe hiệu Camaro có bề ngoài khá bẩn đỗ phía trước nhà. Nhân chứng không nhìn được biển số nhưng thấy có người đàn ông trong nhà. Xe của Washington được nhân chứng cho biết là trùng thương hiệu với chiếc xe đỗ trước hiện trường. Tuy vậy, kết quả khám xe của Washington không mang lại kết quả.
Cảnh sát biết Washington đã ở bên nạn nhân ngay trước khi vụ án xảy ra nhưng không đủ chứng cứ để khởi tố. Vụ án không tìm được thêm manh mối mới dù cảnh sát đã công khai thông tin và treo thưởng để tranh thủ sự trợ giúp của người dân. Việc điều tra cái chết của Joyce bế tắc trong nhiều năm.
Tới năm 2009, khi đang chấp hành án tù về tội Ngộ sát cấp độ II trong sự việc không liên quan, Washington lên cơn đau tim và được đưa đi cấp cứu dưới sự giám sát của cán bộ trại giam. Tại bệnh viện, Washington tin rằng sắp chết nên đã gọi cán bộ đi cùng lại gần vì "có điều này cần nói ra cho nhẹ lòng". Washington thừa nhận đã giết Joyce nên lúc này muốn được tha thứ trước khi chết. Rất mau chóng, lời thú tội của Washington được chuyển cho cơ quan điều tra.
Dường như Washington tin chắc rằng kể cả không chết, mình cũng sẽ không bị truy tố vì vụ án bị kéo dài quá lâu nên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hắn đã nhầm.
Tại Mỹ, từng có trường hợp thẩm phán bãi bỏ cáo trạng giết người trong những vụ án kéo dài nhiều năm vì việc trì hoãn truy tố được cho là vi phạm vào quyền được xét xử nhanh chóng của bị cáo. Ví dụ, nếu công tố viên đợi cho người làm chứng chết đi rồi mới truy tố, điều này sẽ vi phạm vào quyền của bị cáo. Tuy nhiên, đây không phải trường hợp của Washington vì những tội nghiêm trọng như giết người không có thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trái với dự liệu của mọi người, Washington hồi phục hoàn toàn sau cơn đau tim. Hay tin công tố viên đang củng cố hồ sơ đối với mình, Washington cố gắng thu hồi lời thú tội nhưng đã quá muộn.
Dựa trên tình tiết trong lời khai của Washington, cảnh sát tìm thấy những nhân chứng mới và có thể mở lại hồ sơ vụ án của Joyce. Kết hợp với số chứng cứ thu thập được từ năm 1995, công tố viên ra quyết định đưa Washington ra tòa xét xử. Tháng 10/2012, Washington, khi ấy 50 tuổi, bị xét xử về tội Giết người.
Tại tòa, Washington cố gắng chứng minh rằng lời thú tội trên giường bệnh được tạo ra trong lúc bị hoang tưởng do tác dụng phụ của thuốc, đồng thời không tự nguyện vì không được đọc cảnh báo Miranda. Tuy nhiên, lý lẽ của Washington không thuyết phục được bồi thẩm đoàn. Washington cuối cùng lãnh án chung thân và sẽ phải ngồi tù ít nhất 51 năm.
Trước đó, Washington chưa từng kể với ai về vụ án mạng. Cảnh sát cũng không tìm được động cơ gây án. Nếu không thú tội, có lẽ Washington đã có thể được ra tù sau khi chấp hành xong bản án trước đó.
Lô cocaine hơn một triệu USD dạt vào bờ biển Mỹ Biên phòng Mỹ tịch thu lô hàng gồm 30 gói cocaine, trị giá hơn một triệu USD, sau khi chúng trôi dạt vào bãi biển Florida tuần trước. Cơ quan Biên phòng Miami, bang Florida, cho biết lô cocaine nặng khoảng 35 kg này được một người dân phát hiện trên bãi biển ở Hollywood hôm 24/8. Người này sau đó liên hệ...