Lối thoát cho cuộc chiến tranh hao người tốn của và phi nghĩa
Thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội đã khiến cả thế giới khâm phục. Thất bại trong ý đồ dùng quân sự để gây sức ép trên bàn đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 29-12-1972, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra và trở lại cuộc đàm phán tại Paris, tìm lối thoát khỏi cuộc chiến tranh hao người tốn của và phi nghĩa.
Cựu Đại sứ Việt Nam tại Pháp Trịnh Ngọc Thái
Cuộc hòa đàm gay cấn và kéo dài kỉ lục
Ông Trịnh Ngọc Thái là một trong những thành viên của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Paris từ 1968-1973. Ông cũng một cán bộ ngoại giao có thâm niên từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ta tại Pháp. Vào dịp kỉ niệm 40 năm “Điện Biên Phủ trên không”, ông đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi với những góc nhìn đa chiều, có tính tổng kết về thắng lợi quân sự nói chung và “Điện Biên Phủ trên không” nói riêng, đã tác động tới cuộc đàm phán kí kết Hiệp định Paris kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Nằm trong chiến lược toàn cầu của Washington, sau Hiệp định Geneva (năm 1954) về Đông Dương, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào Việt Nam và từng bước đưa quân trực tiếp tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt Nam. Lúc cao điểm, có tới hơn nửa triệu quân Mỹ và quân chư hầu tham chiến. Từ tháng 8-1964, sau khi tạo ra “Sự kiện Vịnh Bắc bộ”, không quân, hải quân Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nước ta. Tuy nhiên, với sự kiên cường của quân và dân Việt Nam, Mỹ – Nguỵ và đồng minh của họ ngày càng bị sa lầy cùng với sự phản đối của dư luận trong nước và quốc tế, Mỹ buộc phải tính tới việc đàm phán, rút quân khỏi Việt Nam. Đầu năm 1967, Tổng thống Johnson gửi thư tới Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề “đàm phán không điều kiện”. Ngày 15-2-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư trả lời Tổng thống Mỹ, khẳng định: “Chính phủ Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam thì con đường đưa đến hoà bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược…Trong thư, ngài có đề ý kiến Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ trực tiếp nói chuyện. Nếu Chính phủ Mỹ thật muốn nói chuyện thì trước hết Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà…”.
Sau thắng lợi xuân Mậu Thân của quân và dân ta, cuối tháng 3-1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và hai bên đạt được thoả thuận đàm phán tại Paris, Thủ đô nước Pháp. Từ trung tuần tháng 5-1968, Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp nhau tại Paris, bắt đầu cuộc hoà đàm gay cấn và kéo dài hiếm có trong lịch sử ngoại giao thế giới.
Sau mấy năm kiên trì đàm phán, nhờ những thắng lợi quân sự quan trọng trên chiến trường cả nước, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giành được thế chủ động trên bàn Hội nghị Paris. Đến tháng 10-1972, Việt Nam và Mỹ đã đạt được bản Dự thảo Hiệp định, với những nội dung cơ bản: Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu triệt thoái hết các các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân Việt Nam Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có 2 chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị…
Cựu Đại sứ Trịnh Ngọc Thái phân tích: Với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đây là những mục tiêu cơ bản đặt ra trong quá trình đàm phán. Theo những nội dung trên, sẽ tạo ra sự thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Quân Mỹ rút hết, quân Nguỵ không còn chỗ “chống lưng”, trong khi lực lượng ta vẫn giữ nguyên tại chỗ. Khác hẳn Hiệp định Geneva năm 1954, quân Pháp rút đi thì lực lượng kháng chiến cũng phải rút về phía Bắc vĩ tuyến 17. Đây là điều Mỹ không muốn và tất nhiên chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cũng không chấp nhận.
Sau khi đạt được nội dung cơ bản Dự thảo Hiệp định, Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thống nhất lịch trình ký chính thức là ngày 25 hoặc 26-10-1972… Tuy nhiên, là một đế quốc hùng mạnh, Mỹ không dễ dàng chấp nhận thua thiệt trong đàm phán và cũng không muốn “bỏ rơi” chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Họ tìm cớ trì hoãn việc kí kết bằng cách đưa ra những đòi hỏi khó chấp nhận đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà Miền Nam Việt Nam. Đến ngày 20-11-1972, cố vấn H.Kissinger đề nghị sửa đổi 69 điểm trong bản Dự thảo Hiệp định, theo yêu cầu của chính quyền Thiệu, trong đó có đòi hỏi quân đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam. Những ngày sau H.Kissinger liên tiếp đưa ra những đòi hỏi vô lí và ngày
23-11-1972, khi gặp Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, ông ta đã đọc bức điện của Tổng thống Nixon ngầm đe doạ ngừng đàm phán, ném bom trở lại… Tuy nhiên đồng chí Lê Đức Thọ đã khảng khái đáp lại: “Chúng tôi đã đánh nhau với các ông mười mấy năm và cũng đã đàm phán 5 năm rồi. Nay các ông có sẵn sàng mới đi đến giải quyết không thể đe doạ chúng tôi được đâu”.
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Nguyễn Duy Trinh
(ngoài cùng bên phải) ký Hiệp định Paris
Hiệu ứng “Điện Biên Phủ trên không”
Là thành viên đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Paris, ông Trịnh Ngọc Thái khẳng định: “Ngoại giao của ta có nhiều thành tựu, có nghệ thuật đàm phán nhưng phải khẳng định, thắng lợi về quân sự mới quyết định kết quả đàm phán. Thắng lợi ngoại giao là sự phát huy những kết quả của thắng lợi trên chiến trường… Sau khi đàm phán bế tắc vào phút chót, H.Kissinger trở về Mỹ và đồng chí Lê Đức Thọ cũng về Hà Nội. Anh Xuân Thuỷ và chúng tôi ở lại Paris, nóng lòng chờ nối lại đàm phán”.
Về phía Mỹ, sau khi đã tái cử thắng lợi trong cuộc bầu cử tháng 11-1972, Tổng thống Nixon đã ra một quyết định phiêu lưu là dùng B52 tàn phá Hà Nội, nhằm ép phía ta phải ký Hiệp định theo những điều khoản có lợi cho Mỹ – Thiệu. Lúc 14h ngày 18-12-1972 (giờ Paris), Mỹ gửi cho đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Pháp một công hàm đề nghị sau ngày 26-12-1972, hai bên có thể nối lại đàm phán vào bất cứ lúc nào. Phía ta vừa nhận được công hàm thì cũng là lúc hàng chục pháo đài bay B52 và nhiều loại máy bay tiêm kích, cường kích xuất phát từ các căn cứ quân sự của Mỹ bay vào vùng trời Việt Nam, dội mưa bom xuống Hà Nội, Hải Phòng. Cả nhân loại tiến bộ phẫn nộ, lên án sự tráo trở, lật lọng của Mỹ. Các thành viên phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Paris hồi hộp dõi theo từng bản tin chiến sự trên các phương tiện truyền thông. Mỗi khi nhận được tin máy bay Mỹ bị bắn cháy, nhất là B52 rơi tại chỗ, họ lâng lâng trong niềm tự hào, vui sướng khó tả. Đến khi báo chí phương Tây nhận định: “Cứ với tốc độ này, B52 sẽ bị tuyệt chủng trong 3 tháng nữa” thì các nhà ngoại giao của ta hiểu rằng, Mỹ sẽ sớm phải trở lại bàn đàm phán.
Video đang HOT
Đúng như dự đoán, ngày 29-12-1972, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 ra Bắc và đề nghị Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nối lại đàm phán. Trở lại Paris, trong cuộc họp với phía Mỹ, ngày 8-1-1973, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã nghiêm khắc lên án phía Mỹ gây ra đợt ném bom huỷ diệt trong mùa Noel năm 1972… Sau gần 3 tháng nối lại đàm phán, ngày 23-1-1973, hai bên đạt được thoả thuận cuối cùng và ký tắt Hiệp định và 4 Nghị định thư. Bốn ngoại trưởng của bốn bên, gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà đã kí chính thức Hiệp định Paris vào ngày 27-1-1973.
Với thắng lợi của “Điện Biên Phủ trên không”, Hiệp định Paris được ký kết, có nội dung về cơ bản không khác nhiều so với bản Dự thảo Hiệp định đạt được trong tháng 10-1972. Việt Nam đã bảo vệ được các nguyên tắc cơ bản: Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân trong 2 tháng sau khi ký Hiệp định Giữ nguyên trạng về chính trị hoàn toàn không đề cập vấn đề quân đội miền Bắc… Từ Hiệp định Paris, cách mạng nước ta bước sang một giai đoạn mới. Hai năm sau, với Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn được giải phóng, thống nhất, đúng như Bác Hồ đã tiên đoán Mỹ cút, thì Nguỵ sẽ nhào.
Theo ANTD
Dừng ném bom trước khi B-52 có nguy cơ "bị tuyệt chủng"
Trong những ngày "Điện Biên Phủ trên không", báo chí phương Tây nhận định chua cay: "Cứ với tốc độ này, chỉ 3 tháng nữa B52 sẽ bị tuyệt chủng!".
Xác máy bay B52 bị quân dân Thủ đô bắn hạ, rơi trên đường Hoàng Hoa Thám.
Trung tướng Vũ Xuân Vinh, nguyên phó Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân, người đã có mặt tại Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân suốt 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội cho biết: Tính đến tháng 11 năm 1972, Hội nghị 4 bên ở Paris đã họp đến gần 160 phiên nhưng vẫn bế tắc. Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã lệnh cho các lực lượng vũ trang: "Có nhiều khả năng địch sẽ đánh phá trở lại toàn miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả việc dùng pháo đài bay chiến lược B52 đánh vào Hà Nội - Hải Phòng. Do đó nhiệm vụ của quân chủng Phòng không - Không quân là tập trung mọi khả năng, nhằm đúng đối tượng B52 mà tiêu diệt".
Đúng vậy, ngày 14-12-1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn ký phê chuẩn chiến dịch Lai-nơ Bếch-cơ 2, bắt đầu đánh trên không vào Hà Nội, Hải Phòng vào 7 giờ sáng 18-12-1972 (giờ Hà Nội là 19 giờ ngày 18-12-1972), đồng thời tiếp tục thả thuỷ lôi phong toả Cảng Hải Phòng.
B52 là loại "siêu pháo đài bay chiến lược" do hãng Boeing sản xuất, chiếc đầu tiên được đưa bay thí nghiệm vào 16-4-1952 nên được gọi B52. Sau 20 năm, năm 1972, B52 đã được qua 8 lần cải tiến từ B-52A đến B-52G, B-52H. Mỗi chiếc B-52G hoặc H (loại bị bắn rơi tại Hà Nội tháng 12-1972) có thể mang trên dưới 100 quả bom với trọng lượng từ 17 đến 30 tấn cùng nổ chỉ trong phạm vi 3 đến 10 giây đồng hồ.
Mỗi B52 được trang bị 15 máy điện tử phát nhiễu chống các loại ra-đa của đối phương. Khi B52 tấn công mục tiêu còn có máy bay EB66 gây nhiễu phía ngoài và nhiều tốp F4 thả nhiễu tiêu cực là những bó sợi hợp kim nhôm trong khu vực độ dài khoảng từ 40km đến 70km, dầy khoảng 2km để gây nhiễu. Trung bình mỗi B52 đi chiến đấu có 7 máy bay chiến thuật đi kèm.
Hoa kỳ cho rằng: "Đối phương không thể có cách chống đỡ và không còn một sinh vật nào tồn tại nổi dưới những trận mưa bom kinh khủng của loại B52 bất khả xâm phạm".
Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp duyệt kế hoạch đánh B52 Mỹ
tại Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân tháng 12-1972.
Theo Thượng tướng Phó Tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài: "Từ mùa xuân năm 1968, Bác Hồ đã nói: Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ dung B52 ném bom Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Trước đây, trước khi ký hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ đã cho không quân hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội".
Trung tướng Vũ Xuân Vinh cho biết Quân chủng Phòng không - Không quân đã cử nhiều đoàn cán bộ vào các chiến trường nghiên cứu cách chống nhiễu trong đánh máy bay địch. Từ thực tế chiến trường, cán bộ chiến sĩ Quân chủng đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý, xây dựng thành những cẩm nang "Cách chống nhiễu thông tin", "Quy trình bắt B52 trong nhiễu"... và đặc biệt là cuốn sách "Cách đánh B52 của Bộ đội Tên lửa". Cuốn sách này dày 30 trang, là sự đúc kết kinh nghiệm, công sức, trí tuệ của một tập thể và phải đổi bằng cả xương máu của nhiều cán bộ, chiến sĩ...
Cuốn cẩm nang đánh B52 hoàn chỉnh trong tháng 11-1972 đã nhanh chóng được phổ biến, triển khai đến các đơn vị chiến đấu, được gọi là "Cuốn sách đỏ", đã góp phần làm sụp đổ thần tượng Pháo đài bay B52 Mỹ.
Trung tướng Vũ Xuân Vinh nhớ lại sự kiện ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm Quân chủng phòng không không quân và chỉ thị: "Cho phép tên lửa các cậu bắn thoải mái, không phải bắn phát một nữa!".
Ngày đầu tiên của "Điện Biên Phủ trên không" (18-12-1972), 3 máy bay B52 bị tiêu diệt và trận quyết định ngày 26-12-1972 có 8 máy bay B52 bị tiêu diệt.
Mức độ B52 bị tiêu diệt đạt 17,6% (34-193 chiếc), vượt xa mức mà Nhà Trắng có thể chấp nhận được từ 1 - 2%, buộc Mỹ phải chấm dứt cuộc tập kích chiến lược và trở lại Hội nghị Paris...
Đêm 18 rạng sáng 19-12-1972, Đế quốc Mỹ cho 87 lần chiếc B52, 135 lần chiếc máy bay chiến thuật ném bom Hà Nội. Đêm 19-12, chúng tổ chức tiếp 3 đợt bắn phá dã man Hà Nội với 93 lần chiếc B52 và 163 lần chiếc máy bay chiến thuật.
Đêm 20 rạng sáng 21-12-1972, không quân Mỹ đánh phá Hà Nội với 8 tốp B52 (24 chiếc), gần 170 chiếc máy bay chiến thuật. Đêm đầu, quân dân Hà Nội đã bắn rơi 3 B52 Mỹ, 4 máy bay chiến thuật, bắt sống 6 giặc lái. Chiếc B-52G đầu tiên rơi tại chỗ ở Phù Lỗ, Đông Anh. Sau đó ta hạ tiếp 7 B52, bắt sống nhiều giặc lái.
Trong những ngày "Điện Biên Phủ trên không", báo chí phương Tây nhận định chua cay: "Cứ với tốc độ này, chỉ 3 tháng nữa B52 sẽ bị tuyệt chủng!".
V iệt kiều mừng chiến thắng trước Trung tâm Hội nghị Quốc tế Kléber - Paris
sau buổi ký kết Hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam ngày 27-1-1973.
Trong phiên 171 của Hội nghị Paris tại Kléber ngày 21-12-1972, vừa vào họp, trưởng đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố: "Để biểu thị sự phản đối những cuộc ném bom cực kỳ dã man và thái độ đàm phán lật lọng của phía Mỹ, đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa với sự đồng ý của đoàn đại biểu Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam quyết định bỏ phiên họp lần thứ 171".
Cả 2 đoàn Việt nam bỏ Hội nghị ra về. Cuộc họp chỉ kéo dài 58 phút.
Đêm 28-12-1972, được thông báo có B52, thượng úy phi công Vũ Xuân Thiều nhận lệnh xuất kích. Anh báo cáo với trung đoàn trưởng: "Bắn mà B52 địch không rơi tại chỗ, tôi sẽ xin lao thẳng vào nó".
21 giờ 45 ngày 28-12-1972, Vũ Xuân Thiều bắn bị thương chiếc B-52D của phi công Lơ-uýt rồi anh đã lao thẳng chiếc Mig của mình vào B52 địch. Phía Hoa kỳ công nhận đây là chiếc máy bay cuối cùng bị không quân Bắc Việt bắn hạ tại chỗ.
Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, không lực Mỹ đã huy động gần một nửa số máy bay chiến lược B52 (193/400 chiếc) với 663 lần xuất kích một phần ba số máy bay chiến thuật (1.077/3.041 chiếc) với 3.920 lần xuất kích, cùng nhiều lực lượng, phương tiện, vũ khí khác. Đó thực sự là một cuộc chiến tàn bạo và huỷ diệt mà theo Mỹ, chúng có thể biến Hà Nội thành bình địa...
Với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", đến ngày 29-12, riêng Hà Nội đã bắn rơi 23 B52, nhiều chiếc bị rơi ngay tại chỗ, bắt sống nhiều giặc lái.
Sau sự kiện này, Tổng thống Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom trên toàn miền Bắc Việt Nam từ 30-12-1972, đi đến việc ký kết Hội nghị về "chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam" tại Paris ngày 27-1-1973.
Những chiến thắng này thuộc công lao tập thể của toàn thể các cán bộ chiến sĩ Phòng không- Không quân, từ Tư lệnh đến anh em các đơn vị tên lửa, cao xạ, ra-đa của toàn thể lực lượng vũ trang, công an, tự vệ...
Ngoài ra không thể quên công lao của các chiến sĩ áo trắng ngành Y. Ngay khi có báo động B52, mặc cho bom rơi đạn nổ trên đầu, anh chị em không ngại hi sinh, nhanh chóng từ nhà đến bệnh viện cấp cứu những người bị thương do bom đạn giặc Mỹ. Hàng chục bác sĩ, dược sĩ , công nhân viên các bệnh viện Bạch Mai, Việt Đức, Sanh Pôn..., sinh viên trường Đại học Y thực tập tại các bệnh viện đã trở thành liệt sĩ.
Trước những đống gạch đổ nát của bệnh viện Bạch Mai, chị bác sĩ Y-vo-nơ, chuyên gia huyết học người Pháp đã không cầm nổi nước mắt nói:
- Tôi chỉ là một bác sĩ, một người làm khoa học nhưng lúc này thấy cần phải làm chính trị để tố cáo tội ác man rợ của Đế quốc Mỹ đã ném bom tàn phá một bệnh viện mà ở đó chỉ có tình thương.
Cũng tại đây, chị Jane Fonda, một nghệ sĩ nổi tiếng người Mỹ bày tỏ:
- Tôi sẵn sàng từ bỏ những thu hoạch kinh tế lớn đến hàng trăm nghìn đô-la mỗi lần hợp đồng đóng phim của tôi để dành cho một việc làm chính trị: đấu tranh chấm dứt cuộc chiến tranh tàn bạo ở Việt nam, chấm dứt những hành động bất nhân của những tên G.I.(Gendarmeri international có nghĩa là: sen đầm quốc tế) khét tiếng.
Tổng thư ký Hội đồng hòa bình thế giới, ông Rô-mét Săng-đờ-ra nói:
- Cuộc chiến tranh của các bạn Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh mới trong lịch sử, trong từ điển của tất cả các thứ tiếng. Nó có nghĩa là lòng dũng cảm tuyệt vời, lòng quyết tâm và chủ nghĩa anh hùng, nó có nghĩa là tất cả những gì mà mọi người mong muốn tìm trên thế giới này.
* * *
Tháng 12 năm 2012. Đã 40 năm qua, nhớ lại những câu chuyện mười hai ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" ở Hà Nội năm xưa, càng thấy tự hào về tinh thần chiến đấu ngoan cường, về lòng yêu nước vĩ đại của những người con quê hương Thăng Long - Hà Nội đã trên 1.000 năm tuổi.
Theo ANTD
"Bản hùng ca Hà Nội" Là chủ đề chương trình cầu truyền hình đặc biệt kỷ niệm 40 năm chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" diễn ra vào 20h ngày 16-12 tới và được truyền hình trực tiếp trên kênh HTV1 Đài PT-TH Hà Nội. Thông qua 6 điểm cầu từng là 6 trận địa, 6 di tích có ý nghĩa lịch sử trong...