Loài “thủy quái” dài nhất thế giới được mệnh danh “rồng biển”
Oarfish được xem là loài cá dài nhất từ trước đến nay. Chúng có chiều dài trung bình khoảng 8m nhưng người ta đã từng nhìn thấy con cá dài tới 17m.
Loài oarfish khổng lồ (còn được gọi là cá mái chèo, tên khoa học Regalecus glesne) được nói đến lần đầu tiên vào năm 1772, nhưng hiếm khi lộ diện vì chúng sống dưới đáy sâu của đại dương – ở độ sâu 1.000m so với mực nước biển.
Cá khổng lồ Oarfish là loài sống lâu đời nhất được biết đến trong các loài cá có xương, có chiều dài lên tới 17m và có thể nặng tới 270kg.
Oarfish có ngoại hình giống như sợi ruy-băng, phần thân ngang há mỏng cùng vây lưng chạy dọc theo toàn bộ chiều dài thân. Chính bởi chiều dài ‘khủng’ cùng phần vây đỏ đặc biệt nên nhiều người gọi loài cá này là rắn biển khổng lồ, hay ‘rồng biển’.
Video đang HOT
Phần vây ngực của cá thường mập, vây chậu có hình mái chèo dài. Màu sắc của cá thường là màu bạc với những mảng đen và vây màu đỏ.
Cá Oarfish không có vây, nhưng khoác chiếc áo màu bạc có chứa chất hóa học guanine – loại chất có nhiều trong vây của một số loài cá. Mặc dù chúng thích nghi để tồn tại dưới áp lực cao nhưng phần da cá Oarfish rất mềm mại và dễ bị tổn thương.
Dù có thân hình ‘khổng lồ’ nhưng cá Oarfish không có răng mà thường bắt mồi bằng mang. Theo đó, chúng hút nước vào miệng, thải nước qua mang, lọc giữ lại những thức ăn nhỏ. Thực phẩm ưa thích của cá Oarfish là các loài nhuyễn thể hoặc giáp xác nhỏ như cá nhỏ hay mực ống.
Oarfish là nguồn cảm hứng vô tận của các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết về những quái vật biển kỳ dị bởi hình dáng gớm ghiếc và khổng lồ của chúng như những con rắn biển, rồng biển.
Một nhóm nghiên cứu ở New Zealand cho rằng, Oarfish còn sống có khả năng phát ra dòng điện có cường độ cao.
Da cá Oarfish không có vảy. Thay vào đó, lớp da được bọc một lớp ‘áo’ mỏng màu bạc. Da mỏng, thịt mềm, nhưng điều kinh ngạc là chúng lại chịu được môi trường áp lực khủng khiếp ở độ sâu 1.000m.
Người Nhật Bản tin rằng, cá Oarfish xuất hiện ở bãi biển báo hiệu thế giới sẽ hứng chịu những trận động đất khủng khiếp. Các chuyên gia cho rằng, do sống gần đáy biển nên chúng nhạy cảm hơn với những chuyển động của đất so với những loài sống gần mặt biển. Tuy nhiên, việc loài cá này có khả năng dự báo động đất hay không vẫn chưa có nghiên cứu khoa học nào chứng minh được.
Theo Đất Việt
Sinh vật nhỏ xíu hồi sinh phi thường sau 3 thập kỷ chôn vùi trong băng giá
Sau ba thập kỷ ngủ vùi, loài bọ gấu vẫn hồi sinh, mang tới hi vọng cho con người về cách thức kéo dài sự sống.
Những sinh vật siêu nhỏ ngủ đông suốt 3 thập kỷ cuối cùng cũng được "thổi" vào sự sống. Theo tờ Crybiology, 8 con bọ gấu dài 1mm, được thu thập từ một mẫu rêu tại Nam Cực vào năm 1983, đã được Viện nghiên cứu Cực Nam Nhật Bản lưu giữ dưới nhiệt độ -20 độ C trong suốt 30 năm. Các nhà khoa học tại đây đã rã đông thành công và giúp 2 con hồi sinh vào đầu năm 2014.
Loài bọ gấu nổi tiếng với khả năng sống dai hơn cả gián.
Tuy vậy, một trong số hai con bọ này đã chết dần sau 20 ngày sống lại. Con còn lại tiếp tục sống sót và cho ra đời một con bọ gấu thứ ba từ một quả trứng đông. Nó tiếp tục đẻ thêm 19 quả với 14 con sống sót.
Bọ gấu thường sống ở các vùng nước trên khắp thế giới, vốn nổi tiếng với đặc tính sống dai hơn cả loài gián và có thể sống sót rất nhiều ngày trong môi trường chân không ngoài vũ trụ.
Theo tờ Asahi Shimbun (Nhật), khi sống trong môi trường lạnh giá, sự trao đổi chất của loài này tự động đóng lại và bước vào trạng thái "sự sống nghỉ ngơi" (trạng thái giữa sự sống và cái chết).
Bằng trạng thái "lơ lửng" giữa sự sống và cái chết, bọ gấu thậm chí có thể sinh sản sau khi vừa sống lại.
Ghi chép về lần cuối cùng loài bọ này có thể sống sót trong nhiệt độ cực khắc nghiệt là 8 năm trước. Trong một bài báo mới xuất bản gần đây, các nghiên cứu sinh cũng cho biết, "những nghiên cứu mới đây đã giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về thời gian sống của loài bọ gấu này".
Nhà nghiên cứu chính Megumu Tsujimoto bày tỏ mong muốn của cả nhóm: "Chúng tôi muốn giải mã cơ chế đằng sau sự sống dai dẳng của loài bọ gấu bằng cách quan sát những tổn thương lên DNA của loài này và khả năng tự chữa lành của nó". Với việc tìm ra cơ chế này, có thể các nhà nghiên cứu sẽ tiến gần hơn đến cách thức làm tăng khả năng sống sót của chính con người trong tương lai.
Theo Ngọc Khuê / Trí Thức Trẻ
Bí ẩn loài "nửa thực vật, nửa động vật" duy nhất trên Trái Đất Loài sên biển này cũng khiến nhiều người thích thú với vẻ ngoài độc đáo, dễ thương của chúng. Trên thế giới, tồn tại một số loài ốc sên biển có chất diệp lục trong cơ thể mà nhờ đó, chúng có thể tự tổng hợp chất dinh dưỡng từ ánh sáng mặt trời giống như thực vật. Tuy nhiên, có một loài...