Lỗ hổng thiết kế, thi công thủy điện
Sự cố thủy điện Sông Tranh 2 chưa lắng xuống thì trong hơn 1 tháng qua liên tiếp xảy ra sự cố vỡ đập thủy điện Đăkrông 3 (tỉnh Quảng Trị) và thủy điện Đăk Mek 3 (tỉnh Kon Tum), khiến dư luận đặt nhiều câu hỏi về thiết kế, chất lượng các công trình thủy điện tại Việt Nam.
Chỉ các dự án thủy điện lớn mới có cửa xả đáy
Đa số không có nhiệm vụ cắt lũ
Liên quan đến sự cố 2 đập thủy điện nêu trên, các nguyên nhân trực tiếp được đưa ra rất khó tin như: xe ben đụng vỡ hay do một trận lũ. Theo các chuyên gia, do chất lượng công trình “có vấn đề”, đã dẫn đến những thiệt hại nêu trên. Tại cuộc hội thảo mới đây về các công trình thủy điện, ông Trần Việt Hòa – Trưởng phòng Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương) cho biết, Việt Nam hiện có hơn 1.000 dự án thủy điện nhỏ tại 32 tỉnh, thành phố. Xét về tỷ lệ công trình gặp rủi ro, 2-3 công trình/tổng thể các dự án thủy điện thì không thấm tháp vào đâu. Tuy nhiên, nếu tính toán con số thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng thì chất lượng công trình thực sự đáng lo ngại.
Theo PGS.TS Lê Bắc Huỳnh – Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, đa số các công trình thủy điện vừa và nhỏ ở nước ta đều không có nhiệm vụ cắt giảm lũ cho hạ du, trong khi nước ta thường xuyên phải đối mặt với thiên tai lũ lụt trong mùa mưa và hạn hán trong mùa khô. “Đây là sai lầm lớn về mặt chủ trương và quản lý các công trình này mà trách nhiệm là từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, họ có trách nhiệm trực tiếp phê duyệt các thiết kế, phê duyệt quy trình vận hành các hồ chứa” – ông Huỳnh nói. Theo ông Huỳnh, các công trình thủy điện đã xây dựng thường chỉ quan tâm tới hiệu quả phát điện, xây dựng công trình kiểu đường dẫn, cắt nhỏ dòng sông. Đa số các công trình hồ chứa không có dung tích phòng, chống lũ cho hạ du. Nếu vận hành không hợp lý sẽ gia tăng lũ trong mùa ngập lụt ở hạ du hoặc không đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu cho hạ du trong mùa cạn.
Tại cuộc họp báo thường kỳ tháng 11-2012 của Bộ Công Thương, ông Lê Tuấn Phong- Phó tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết, việc thiết kế cửa xả đáy cho dự án thủy điện tùy thuộc vào tính chất từng công trình, thủy văn và địa hình. Tới đây, các dự án thủy điện sẽ xem xét thiết kế dòng chảy tối thiểu theo quy định của Bộ Tài nguyên – Môi trường.
Để phát triển thủy điện bền vững, Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đề nghị cần đưa ra các giải pháp kỹ thuật công trình cần thiết ngay từ khi chuẩn bị đầu tư xây dựng, để thực hiện các dự án chống lũ và cấp nước, loại trừ việc ảnh hưởng của lũ hay các đoạn sông “chết” do xây dựng công trình.
Phối hợp chặt chẽ hơn
Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc liên tiếp xảy ra các sự cố thủy điện trong thời gian ngắn, trách nhiệm của Bộ Công Thương ra sao, ông Phong cho biết: “Việc lập quy hoạch thủy điện trên địa phương (công suất dưới 30MW) do UBND tỉnh chủ trì, Bộ Công Thương chỉ phối hợp. Việc đánh giá tác động môi trường hay các điều kiện khác do các sở, ngành, UBND tỉnh thực hiện. Trong quá trình xây dựng, chủ đầu tư có tuân thủ thiết kế không là trách nhiệm giám sát của UBND tỉnh”. Tuy nhiên, qua một số vụ việc vừa qua, Bộ Công Thương sẽ xem xét lại và tham gia quản lý chặt chẽ hơn các dự án thủy điện.
Video đang HOT
Theo ông Cao Anh Dũng- Phó cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương), các dự án thủy điện nhỏ đang trong quá trình xây dựng, chưa tích nước nên trách nhiệm thuộc về chủ đầu tư. Năm 2012, Bộ Công Thương đã ra chỉ thị yêu cầu chấn chỉnh các dự án thủy điện.
Hiện việc phê duyệt các công trình thủy điện đang có 2 xu hướng chính, nhưng đều thiếu sự phối hợp chặt chẽ. Một là dự án thủy điện lớn do bộ, ngành Trung ương phê duyệt thì thiếu tham vấn ý kiến địa phương; Hai là dự án nhỏ do địa phương phê duyệt thì thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung, thiếu cách nhìn tổng thể. Bởi vậy, PGS.TS Lê Bắc Huỳnh cho rằng, cần ban hành cơ chế phối hợp cần thiết để trao đổi thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước về hồ chứa thủy điện, thủy lợi ở Trung ương và địa phương.
Trước những lo ngại về ảnh hưởng của dự án thủy điện, ông Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang cho biết: “Việc phát triển thủy điện vẫn cần thiết để đảm bảo nhu cầu năng lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, trong khi các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo khác còn hạn chế”. Tuy nhiên, việc xây dựng cần đảm bảo 5 nguyên tắc: đảm bảo an toàn hồ đập, tính mạng của người dân; di dân tái định cư tốt hơn nơi cũ; đáp ứng yêu cầu về môi trường; đem lại hiệu quả kinh tế xã hội và thực hiện đúng quy định của nhà nước.
Theo ANTD
Thủy điện Việt Nam đi "ngược chiều" thế giới - Kỳ 3: Không sạch mà cũng không rẻ
Thanh Niênđã phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập, người từng tham gia nhóm nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược các đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông, xung quanh những nghiên cứu về tác hại của thủy điện với môi trường.
Thủy điện không sạch
Thưa ông, thủy điện có phải là nguồn năng lượng sạch như trước nay người ta vẫn nghĩ?
Ông Nguyễn Hữu Thiện
Theo một nghiên cứu của Đại học Alberta (Canada), lượng phát thải khí nhà kính từ các hồ thủy điện đóng góp khoảng 7% nguồn khí nhà kính gây ra tình trạng nóng lên toàn cầu. Mạng lưới Nam Á về đập, sông ngòi và con người thì cho biết, tổng lượng phát thải của các đập lớn ở Ấn Độ là khoảng 45,8 triệu tấn khí methane (CH4) mỗi năm, chiếm khoảng 19% tổng lượng phát thải khí nhà kính của Ấn Độ. Ông Patrick McCully, Giám đốc Mạng lưới sông ngòi quốc tế (International Rivers Network), nói rằng: "Những người lập chính sách về khí hậu đã đánh giá thấp tầm quan trọng của methane phát thải từ đập. Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề này".
Theo tờ Science Daily, ở Thụy Sĩ, một lượng lớn khí methane phát thải ra không chỉ từ các hồ chứa thủy điện lớn mà còn từ các hồ chứa của đập dâng (run-of-river dam), đặc biệt là vào mùa hè khi nhiệt độ nước cao lên. Lượng phát thải CH4 hằng ngày của hồ Wohlen, gần thành phố Bern, là 150 miligam/m2 mặt hồ. Khi nhiệt độ ấm lên đạt 170C thì sự phát thải tăng gấp đôi, tương đương với lượng phát thải ở các đập ở vùng nhiệt đới. Ngoài ra, các công trình thủy điện thường dẫn đến sự tàn phá rừng bằng nhiều cách bao gồm mất rừng tại nơi xây dựng đập, diện tích rừng bị dìm ngập trong lòng hồ, diện tích rừng bị phá để làm đường truyền dẫn điện, và khi các cộng đồng bị tái định cư, mất đất, mất sinh kế sẽ phải trở thành "lâm tặc bất đắc dĩ", phải phá thêm rừng để sinh sống. Những diện tích rừng bị mất này sẽ làm mất đi chức năng hấp thu và lưu trữ carbon.
Những điều này cho thấy thủy điện không hẳn là nguồn năng lượng sạch.
Xin ông cho biết cụ thể về việc các hồ thủy điện gây nguồn phát thải khí nhà kính như thế nào?
Các nghiên cứu gần đây cho thấy hồ chứa thủy điện ở thượng lưu đập và kể cả đoạn sông ngay phía hạ lưu đập có phát thải một lượng đáng kể khí CH4 và khí carbonic (CO2) vào khí quyển. Theo IPCC, CH4 là một loại khí nhà kính mạnh gấp 21 lần khí CO2 trong tiềm năng làm nóng lên toàn cầu, tính cho cùng giai đoạn 100 năm.
Khi hồ chứa bắt đầu tích nước, một lượng lớn vật liệu hữu cơ từ thực vật và đất bị dìm xuống đáy hồ, nhất là khi diện tích bị ngập là rừng. Sau đó vật liệu hữu cơ từ các nguồn khác nhau trong lưu vực như xác bã thực vật, dư lượng phân bón nông nghiệp trong lưu vực, chất thải chăn nuôi sẽ tiếp tục theo các nhánh sông dẫn đến hồ chứa và bị giữ lại trong hồ. Ngoài ra, hằng năm khi mực nước hồ hạ thấp theo mùa, thực vật sẽ phát triển ven bờ, sau đó lại bị dìm chết khi nước hồ lên cao trở lại. Tất cả những vật liệu hữu cơ này bị lắng xuống đáy hồ tích tụ trong điều kiện thiếu ô xy. Thêm vào đó, trong hồ, phiêu sinh thực vật cũng phát triển nhiều hơn so với sông trước đây. Xác bã phiêu sinh thực vật chết cũng sẽ lắng xuống đáy hồ.
Trong điều kiện dòng sông chảy tự nhiên thì nước được pha trộn, nên ô xy được cung cấp tận đáy sông, nhờ đó vật liệu hữu cơ sẽ phân hủy trong điều kiện có ô xy, phần lớn carbon phân hủy sẽ tạo ra khí CO2. Còn ở lớp nước bên dưới trong hồ thủy điện do thiếu ô xy, sự phân hủy dưới tác động của vi sinh vật yếm khí làm cho phần lớn carbon của vật liệu hữu cơ bị chuyển thành khí CH4. Điều này có nghĩa là cùng một lượng carbon chứa trong vật liệu hữu cơ, nếu bị phân hủy trong điều kiện của hồ thủy điện, sẽ gây nóng lên toàn cầu gấp nhiều lần so với nếu không bị dìm dưới đáy hồ và phân hủy trong môi trường trên cạn.
Đập thủy điện Đăk Mek 3 bị "xe ben đụng vỡ" gây nên lo ngại lớn về chất lượng xây dựng các đập thủy điện - Ảnh: Trần Hiếu
Đập chỉ rẻ đối với nhà đầu tư
Nhưng đây lại là nguồn năng lượng rẻ tiền và sẵn có?
Ngày nay khoa học đã cho thấy thủy điện gây ra những thiệt hại đáng kể về môi trường và xã hội. Đập làm thay đổi môi trường nước, môi trường đất, ảnh hưởng thủy sản, nông nghiệp và vô số các tác động tiêu cực do sự thay đổi dòng chảy tự nhiên. Tuy nhiên, rất khó để có thể tính ra bằng tiền toàn bộ chi phí do tác động của thủy điện gây ra vì những chi phí này không chỉ ở tại chỗ mà còn diễn ra trong phạm vi địa lý rất lớn, có khi là xuyên biên giới, trong khoảng thời gian rất dài. Số người gánh chịu chi phí cũng rất đông và đa dạng, trong đó người nghèo ở nông thôn bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Thủy điện chỉ rẻ đối với nhà đầu tư bởi nhà đầu tư chỉ phải chịu các loại chi phí chính là xây dựng, vận hành, tái định cư và thường không phải trả những chi phí khác mà xã hội và môi trường phải gánh chịu. Ngoài ra, nếu đập được thiết kế và vận hành an toàn thì chi phí tháo dỡ đập sau khi hết hạn sử dụng (thường khoảng 50 năm) chưa được tính vào chi phí của nhà đầu tư. Đó là chưa kể chi phí trong trường hợp phải tháo dỡ đập do thiết kế hay xây dựng kém chất lượng, không an toàn...
Theo TS Lê Anh Tuấn, Trường ĐH Cần Thơ, nhiều nước trên thế giới đã nhận ra tác hại của các đập thủy điện đối với môi trường.
Mỹ đã phá bỏ 4 đập thủy điện trên sông Klamath chảy dọc giữa 2 bang California và Oregon. Brazil và Myanmar cũng đã đình chỉ việc xây dựng các đập thủy điện gây hủy hoại rừng, môi trường... Các tổ chức WB, IMF, ADB cũng gần như không còn tài trợ những dự án thủy điện lớn trong khi Việt Nam lại quá hăm hở với thủy điện.
Theo TNO
Thủy điện Việt Nam đi "ngược chiều" thế giới - Kỳ 4: Chỉ phát điện, không phòng lũ Việc phát triển hệ thống thủy điện của Việt Nam hiện nay có nhiều lỗ hổng. Nhiều công trình không có dung tích phòng lũ và không có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐGTĐMT) trên toàn hệ thống. Một nghiên cứu chuyên đề về "Đánh giá tác động xả lũ của thủy điện Sông Ba Hạ đến hạ lưu sông...