Lính đặc công kể chuyện 4 ngày đánh chiếm cầu Rạch Chiếc
“Pháo chụp phát nổ trên không, cách mặt đất 5-7 m. Những mảnh pháo sau khi nổ cắm xuống khiến nhiều đồng đội hy sinh trước mặt tôi”, cựu binh Nguyễn Đức Thọ kể.
Năm 17 tuổi, chàng trai quê Thanh Hóa Nguyễn Đức Thọ giác ngộ cách mạng, đi thoát ly chiến đấu. Anh được huấn luyện tại Đoàn 126 Đặc công Hải quân và sau đó biên chế vào đơn vị Z23 Đặc công nước, vào Nam hoạt động ở vùng Đông bắc Sài Gòn, cạnh xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa và cầu Rạch Chiếc.
Vùng này trước năm 1975 toàn sình lầy, cây dại phủ đầy, lại nằm giữa cụm liên hiệp phòng thủ tại cầu Rạch Chiếc, Liên trường Thủ Đức – Cát Lái. Quanh đó là các cảng quân sự Sài Gòn, Nhơn Trạch. Quân lực tập trung tại các điểm này lên tới hơn 10.000 người, cùng với máy bay, tàu chiến.
Cựu chiến binh Nguyễn Đức Thọ, người bắn phát B40 khai màn trận đánh cầu Rạch Chiếc 40 năm trước. Ảnh: Trường Nguyên.
Đề phòng bộ đội giải phóng hoạt động tại đây, chính quyền Việt Nam Cộng hoà cho rải chất độc, chất phát quang khiến cây cối không sống được. “Muốn trụ vững địa bàn, chúng tôi phải dầm mình suốt ngày dưới các bãi sình lầy ngập ngụa, hoặc nép vào những bụi dừa nước liên tục nhiều ngày để trinh sát”, ông Thọ nhớ lại.
Những ngày tháng 4/1975, nhiều cánh quân tiến nhanh thần tốc, chuẩn bị bao vây Sài Gòn. Đơn vị Z22, Z23 (đặc công nước, Lữ đoàn 316 thuộc Bộ Tham mưu Miền) và Tiểu đoàn 81 (đặc công cạn) được giao nhiệm vụ đánh chiếm và giữ cầu Rạch Chiếc, mở đường cho các đơn vị quân chính quy tiến vào nội đô.
Ông Thọ kể: “Lúc biết mình được chọn bắn phát súng đầu tiên mở màn trận đánh, tôi khá hồi hộp nhưng cảm thấy rất tự hào. Các anh em xác định đây là trận đánh ác liệt, cam go, có thể hy sinh bất cứ lúc nào bởi cụm phòng thủ cầu Rạch Chiếc được xem là bức tường lửa”.
Thực tế, sau thất bại ở Xuân Lộc (Đồng Nai), chính quyền Việt Nam Cộng hoà dồn lực lượng vào phòng thủ khiến trận đánh thêm khó khăn.
Riêng lực lượng canh giữ thường trực cầu Rạch Chiếc có khoảng 400 lính được trang bị súng chống tăng, phóng lựu, súng cối 60 ly. Hai đầu cầu có 4 lô cốt kiên cố, mép sông có nhiều công sự, bốt gác, bãi mìn… biến nơi đây thành lưới lửa cực mạnh. Dưới gầm cầu có hai khối thuốc nổ lớn, đề phòng trường hợp không giữ được thì phá huỷ.
Rạng sáng 26/4/1975, lực lượng được giao nhiệm vụ đánh cầu Rạch Chiếc đi nhận vũ khí. Mỗi bộ đội lấy cho mình súng AK, 16 quả thủ pháo, 2 lựu đạn. Các chiến sĩ phụ trách bắn B40, B41 được trang bị thêm 10 quả đạn. Thức ăn, hậu cần đem theo mỗi người là 2 nắm cơm, 4 cuộn bông băng. Giờ G nổ súng được xác định 3h15 ngày 27/4.
Người cựu binh kể: “Khi gà chưa gáy, trời tối thui nhưng giờ G đã điểm, tôi bắn phát súng đầu tiên vào tháp canh cầu Rạch Chiếc nhưng không trúng vì tránh hàng rào thép gai nên nâng súng hơi cao. Đồng chí Trần Đình Lạc hô: &’Bắn tiếp đi, Thọ ơi’. Tôi bắn tiếp phát thứ 2 trúng đích, đạn làm đổ một góc tháp canh, hạ luôn khẩu đại liên của địch”.
Ông Nguyễn Đức Thọ (bìa trái) chụp ảnh cùng đồng đội sau chiến thắng cầu Rạch Chiếc. Ảnh tư liệu.
Video đang HOT
Những đồng đội ở vị trí chiến đấu khác xông lên, ném lựu đạn vào lô cốt khiến lực lượng phòng thủ ở đây hoảng loạn tháo chạy. Trận đánh được chuẩn bị kỹ nên diễn ra thuận lợi.
Đến chiều cùng ngày, quân đội Việt Nam Cộng hoà tập trung lực lượng phản kích dữ dội. Pháo lớn từ các cụm phòng thủ Thủ Đức, Cát Lái dồn dập dội vào trận địa của những người lính đặc công.
“Cơn mưa đạn pháo dội vào không hiệu quả, họ chuyển sang dùng pháo chụp. Loại pháo này phát nổ trên không, cách mặt đất 5-7 m, những mảnh pháo sau nổ cắm thẳng xuống khiến nhiều đồng đội hy sinh trước mặt tôi”, ông Thọ nhớ về thời điểm ác liệt của trận đánh.
Ngoài ra, quân đội Việt Nam Cộng hoà còn dùng loại pháo “luồng”, khi bắn vào trận địa thì cắm sâu xuống đất mới phát nổ, gây áp lực lớn, hất tung mọi thứ ở trên mặt đất. Ông Thọ bị thương nhẹ khi bị một quả pháo loại này nổ ở gần.
“Biết nhiều chiến sĩ đánh cầu Rạch Chiếc đói nhưng không rời vị trí chiến đấu, người dân quanh vùng bí mật nấu cơm, mang ra tận nơi ẩn nấp tiếp tế nên chúng tôi mới có thể bám trụ”, cựu chiến binh kể.
Đến ngày 29/4, đơn vị được lệnh rút ra ngoài, tổ chức lại lực lượng chuẩn bị tái đánh chiếm cầu. Yêu cầu lần này là phải chiếm được, không để sập cầu, mở đường cho quân giải phóng tiến vào nội đô Sài Gòn.
Lúc 5h ngày 30/4, đơn vị đặc công nước, biệt động lại nổ súng tấn công vào cụm phòng thủ cầu Rạch Chiếc. “Bên trong đồn tập trung hàng ngàn quân, nhưng chủ yếu là bại binh từ Long Thành, Xuân Lộc chạy về nên không còn tinh thần chiến đấu. Đợt tiến công diễn ra nhanh chóng, quân đội Việt Nam Cộng hoà tháo chạy tán loạn về trung tâm, số khác đầu hàng”, ông Thọ kể.
Đến sáng sớm 30/4, đại quân giải phóng hướng Đông tiến qua cầu Rạch Chiếc, hành quân vào Dinh Độc Lập (nay là Dinh Thống Nhất). Những chiến sĩ đặc công đánh cầu chia làm hai nhóm, một giữ kho quân nhu, một qua nhà máy điện Thủ Đức vận động công nhân tiếp tục làm việc để Sài Gòn không bị cắt điện.
“Trong lúc đến nhà máy điện, mấy anh em mang theo chiếc radio. Khi nghe tiếng Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, niềm vui mừng chiếm trọn trái tim chúng tôi. Mấy anh em nhìn nhau không nói nên lời, ai cũng muốn chạy vào nội ô chứng kiến ngày thống nhất. Nhưng vì nhiệm vụ, chúng tôi vẫn ở lại vị trí được giao trong ngày lịch sử đó”, người cựu chiến binh 60 tuổi kể về thời khắc hay tin giải phóng Sài Gòn.
Kể chuyện một lúc, ông lại chùng xuống, mắt đượm buồn khi nghĩ về các đồng đội. Hai ngày đầu đánh và giữ cầu, lực lượng phòng thủ cầu Rạch Chiếc đông, nhiều súng nên phản kích ác liệt. Cả Z22 và Z23 lúc rút ra ngoài chỉ còn 29 người, 52 đồng đội của ông đã hy sinh trước ngày thống nhất.
Người làm ông Thọ nhớ nhất là chiến sĩ Hoàng Viết Thành (quê Quảng Bình, chỉ huy đội đặc công). Trong lúc chiến đấu, ông Thành bị mảnh pháo làm gãy một chân nhưng vẫn kiên cường, không rời vị trí.
Thấy chỉ huy bị thương nặng, anh em đặc công tìm được chiếc xuồng, định để ông Thành lên, đẩy theo dòng nước ra bìa rừng dừa cho quân y chăm sóc. Nhưng chỉ huy đặc công không chịu, động viên đồng đội tiếp tục chiến đấu. Lúc đó, một mảnh pháo khác dội đến cắt đứt chân còn lại của ông Thành.
Trong điều kiện sình lầy, vết thương của ông nhanh chóng hoại tử, người nóng sốt mê man. Trong cơn đau, người chỉ huy trận mạc gọi “mẹ ơi” khiến đồng đội không cầm được nước mắt.
“Có chiến sĩ bị bắt, nhất quyết không khai nên bị quân đội Việt Nam Cộng hoà chặt đầu, bỏ ở 2 đầu cầu để uy hiếp tinh thần. Nhưng điều đó chỉ làm chúng tôi càng quyết tâm chiến đấu mà thôi”, ông Thọ nói.
Người lính bắn phát súng đầu tiên trong trận đánh cầu Rạch Chiếc tiếp tục hoạt động trong quân đội đến năm 1983 thì giải ngũ, trở về Thanh Hóa. Ông là thương binh, mất sức lao động hơn 60 %. Năm 1990, ông đưa cả gia đình vào TP HCM lập nghiệp.
Vợ chồng ông có ba người con, đang sống ở quận 8. Trong đó, người con gái bị bệnh vì ảnh hưởng chất độc hóa học trong thời gian ông Thọ đi chiến đấu.
Kỳ sau: Đời thường của người bắn phát B40 đầu tiên trong trận đánh cầu Rạch Chiếc
Theo Tri Thức
Đặc công Hải quân Việt Nam - siêu nhân ngoài đời thực
Bộ đội đặc công Hải quân Việt Nam gồm những chiến sĩ được tuyển lựa nghiêm ngặt nhất, huấn luyện với những khoa mục khắt khe nhất.
Đặc công Hải quân Việt Nam luyện tập
Ngàn người chọn một
Với đặc thù của đơn vị đặc biệt tinh nhuệ, đòi hỏi quân nhân phải có sức khỏe tốt nên chiến sĩ trong các đơn vị đặc công nước không được tuyển trực tiếp từ địa phương mà phải tuyển chọn từ những tân binh ưu tú nhất của các đơn vị quân đội. Sau mỗi mùa tuyển quân, kết thúc quá trình huấn luyện tân binh, các cán bộ Đoàn đặc công lại đến các đơn vị thuộc Quân chủng Hải quân để tuyển người vào đặc công nước.
Luyện tập tiếp cận mục tiêu từ dưới nước
Ngoài những tiêu chí như sức khỏe tốt, ứng viên phải trải qua các bước kiểm tra đặc biệt, trong đó có việc ngồi lên chiếc ghế "xoay tít mù" trong vòng 3 phút. Khi ghế dừng lại, ứng viên phải đi qua một đoạn đường kẻ vạch rộng 80cm, dài 2m mà không được dẫm lên vạch, đến chiếc bảng rồi viết rõ ràng một chữ nào đó theo yêu cầu. Rất nhiều người không vượt qua được bài kiểm tra mở màn này. Yêu cầu khắt khe nên từ vài nghìn chiến sĩ ở các đơn vị thường cũng chỉ chọn được khoảng 50 tân binh cho huấn luyện đặc công nước.
Từ số này, đơn vị lại tiếp tục chọn vài người xuất sắc nhất để đưa vào đội người nhái sau khi họ vượt qua được bài kiểm tra "ép nhái" trong một chiếc máy hình ô-van khổng lồ diện tích khoảng 10m2. Sau khi đưa khoảng 5-6 người vào trong chiếc máy đó, giám khảo sẽ vận hành, tăng giảm áp suất trong máy. Áp lực tạo nên khí nén cực lớn sẽ tác động lên toàn bộ cơ thể chiến sĩ.
Sở dĩ phải thực hiện bài luyện tập "ép nhái" vì khi người nhái lặn xuống nước ở độ sâu vài chục mét, họ phải chịu áp lực cực lớn tác động lên toàn cơ thể. Nếu người chiến sĩ không có sức khỏe tốt và khả năng chịu được áp lực khi lặn xuống độ sâu đó có thể xảy ra tai nạn chết người. Sau quá trình "ép nhái", những người có sức khỏe tốt nhất được tuyển vào đơn vị người nhái, những người khác được biên chế vào đơn vị đặc công nước và đội đặc nhiệm chống khủng bố.
Huấn luyện khắt khe
Đặc công nước có thể bơi liên tục hàng chục km, ngâm mình trên mặt nước cả ngày. Đặc công người nhái, "xuất quỷ nhập thần", lặn sâu vài chục mét, bất ngờ tấn công các mục tiêu khó nhất. Đó là những nét phác thảo sơ bộ về những người lính đặc công Hải quân.
Một trong những khoa mục huấn luyện rất bình thường của các chiến sĩ đặc công nước nhưng cũng có thể gây ngưỡng mộ lớn đối với nhiều người ngoại đạo là giữa tiết trời lạnh 120C, các chiến sĩ chỉ mặc trên mình chiếc quần đùi, trầm mình xuống nước bơi một mạch 10 km ra phía cửa biển hay vùi mình trong cát hàng giờ liền giữa trời nắng 400C.
Luyện tập đột kích lên đảo
Huấn luyện đặc công hải quân còn bao gồm rèn thể lực để có thể mang vác vũ khí, khí tài nặng di chuyển bí mật. Rèn luyện võ thuật là điều không thể thiếu đối với người lính đặc công. Kỹ thuật hoá trang yêu cầu người lính có thể ém quân, nằm giấu mình trên cát, dưới bờ sông, kênh rạch cả ngày, ngay trước mặt nhiều người mà không bị phát hiện. Đó còn là các chiến thuật đột nhập, vượt qua các chốt canh phòng của đối phương hay vượt các chướng ngại vật như dây thép gai, bãi mìn, dây điện...
Khoa mục khắc nghiệt nhất trong chương trình huấn luyện đặc công Hải quân là "thả trôi". "Huấn luyện thả trôi là bài tập bắt buộc nhằm luyện cho bộ đội đặc công khả năng chịu đựng, có thể sống sót trên biển trong những tình huống đặc biệt". Khi huấn luyện thả trôi, các chiến sĩ phải mang theo những vũ khí, trang bị cần thiết như khi chiến đấu gồm dao đa dụng, súng, khối nổ, thức ăn, nước uống rồi dầm mình dưới biển để cho trôi dạt. Yêu cầu bắt buộc là mỗi chiến sĩ phải thả trôi 25 giờ liên tục, nhưng có nhiều người vượt chỉ tiêu, thả trôi được tới 38 giờ. Vì phải ngâm mình trong nước liên tục nên thức ăn của lính đặc công Hải quân cũng rất đặc biệt (gồm những tuýp nhỏ bằng hộp kem đánh răng, có đủ các vị như thịt bò, thịt lợn, gà, bảo đảm mỗi tuýp cung cấp 2.500 calo).
Đối với đơn vị người nhái, ngoài các bài tập như các chiến sĩ ở Đội đặc công nước, họ được huấn luyện thành thục kỹ thuật lặn sâu, ngụy trang dưới nước, tránh các thiết bị dò tìm người nhái... Người nhái ngày nay được trang bị vũ khí, khí tài hiện đại hơn những người nhái ngày xưa. Khi lặn cũng không hề sủi tăm, không cần chân vịt...
Chiến sĩ đặc công người nhái
Trong chương trình huấn luyện còn có khoa mục đối kháng. Giữa 2 đơn vị quy ước với nhau, một bên "đánh" còn một bên "giữ" vị trí. Bên "đánh" là đặc công hải quân báo trước cho bên "giữ" nội dung: "Trong khoảng thời gian từ 16 - 22h, ngày X sẽ "đánh" mục tiêu là cầu tàu A". Lập tức bên "giữ" tổ chức lực lượng, bố phòng chặt chẽ bằng cách rải lưới khắp cầu tàu, cho canô chạy liên tục, cứ 3m lại có một người canh gác cầu tàu. Tuy nhiên, chưa hết giờ quy định, bên "đánh" điện báo: Đã gắn "mìn" (được quy định là một miếng bìa màu, dán vào cầu tàu A).
Chính nhờ được huấn luyện kỹ càng, khắt khe, đặc công nước có thể vượt qua được những hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt nhất để tấn công mục tiêu. Những người lính đặc công Hải quân hôm nay kế thừa truyền thống quý báu của cha anh, không ngừng huấn luyện, làm chủ phương tiện kỹ thuật, xứng đáng là đơn vị đặc biệt tinh nhuệ của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Theo Xahoi
Cận cảnh đời thường của lính đặc công Nhắc đến bộ đội đặc công, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến những người lính giỏi võ thuật, tác chiến bí mật, táo bạo, đánh hiểm thắng lớn. Nhưng ít ai biết rằng, những người lính tinh nhuệ được coi là "quả đấm thép" của Quân đội Việt Nam cũng rất giỏi "tăng gia sản xuất". Chiến đấu viên Đội 11, Liên đội...