Liên Xô theo dõi tàu ngầm Mỹ nhờ hệ thống bí mật này
Cảm biến Sonar được mệnh danh là “mắt thần” của tàu ngầm, giúp phát hiện vị trí cũng như hành động của các tàu mặt nước hoặc tàu ngầm đối địch. Thế nhưng, nhờ có công nghệ bí mật này, các tàu ngầm của Liên Xô không cần bật Sonar mà vẫn có thể bí mật theo dõi, bám theo tàu ngầm Mỹ.
Hệ thống SOKS trên một tàu ngầm Liên Xô
Cuối thập niên 1980, Liên Xô tuyên bố tàu ngầm tấn công hạt nhân K-147 của họ đã bí mật bám đuôi tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo Mỹ liên tục trong 6 ngày, dù không trang bị hệ thống định vị thủy âm (sonar). Các chuyên gia quân sự Mỹ lúc đó cho rằng đây là điều không tưởng, cho đến khi Cục tình báo Trung ương Mỹ ( CIA) hồi giữa năm nay giải mật tài liệu về năng lực tác chiến chống ngầm Liên Xô trong thập niên 1970, theo Popular Mechanics.
Trong giai đoạn 1970-1980, giới quan sát Mỹ tin rằng Liên Xô chưa sở hữu hệ thống sonar, công nghệ được coi là con mắt dưới biển của tàu ngầm, giống như Mỹ và NATO. Điều đó khiến nhiều người gọi tàu ngầm Liên Xô là những chiếc “tàu ngầm mù”. Tuy nhiên, trong khi NATO tập trung vào công nghệ sonar để phát hiện tàu ngầm đối phương thì Liên Xô đi theo một hướng hoàn toàn khác.
Chuyên gia quân sự David Hambling cho biết trong môi trường nước biển, tàu ngầm không thể sử dụng radar mà chỉ có thể lợi dụng sóng âm để phát hiện tàu ngầm địch.
Hệ thống sonar được chia thành hai loại cơ bản. Sonar chủ động phát ra tín hiệu âm thanh (tiếng ping) và theo dõi tín hiệu phản xạ từ các chướng ngại vật dưới nước. Ngược lại, sonar thụ động dựa trên cảm biến âm thanh độ nhạy cao, có thể thu được tiếng ồn từ động cơ hoặc chân vịt tàu chiến. Sonar thụ động đòi hỏi chi phí đầu tư và trình độ công nghệ rất cao, nhưng có thể duy trì khả năng ẩn mình của tàu ngầm.
Mỹ và NATO phát triển các hệ thống sonar có hiệu quả cao, đến mức các phương pháp phát hiện mục tiêu dưới nước khác đều bị lãng quên. Trong nhiều thập kỷ, các phương thức không dùng sonar được cho là yếu thế, bị giới hạn về tầm hoạt động và độ tin cậy so với hệ thống sonar.
Nền công nghiệp điện tử thua kém phương Tây khiến Liên Xô khó có thể cho ra đời những hệ thống sonar hiệu quả, buộc họ phát triển những giải pháp thay thế. Một trong số này là hệ thống SOKS, được tích hợp cho các tàu ngầm tấn công Liên Xô để theo dõi vệt sóng phía sau tàu ngầm đối phương. Nó bao gồm một loạt mũi nhọn và ống rỗng gắn bên ngoài tháp chỉ huy.
Video đang HOT
Các cảm biến của hệ thống SOKS
Mỹ coi tuyên bố của Liên Xô về thành tích tàu ngầm K-147 là điều bất khả thi, nhưng Lầu Năm Góc vẫn phải bí mật tiến hành nghiên cứu về hệ thống SOKS. Một số nguồn tin cho rằng hệ thống này có thể đo sự thay đổi mật độ nước biển, phát hiện bức xạ và thậm chí được trang bị hệ thống cảm biến laser.
Phương Tây biết hệ thống SOKS đầu tiên xuất hiện trên tàu ngầm K-14 thuộc Đề án 627 Kit vào năm 1969. Kể từ đó, Liên Xô đã phát triển nhiều biến thể khác nhau. SOKS dường như cũng được trang bị cho mọi tàu ngầm tấn công thế hệ mới của Nga như Đề án 971 Shchuka-B và Đề án 855 Yasen.
Theo các tài liệu mới được giải mật, Moscow từng phát triển một số thiết bị có khả năng thu thập dấu vết phóng xạ từ lò phản ứng hạt nhân trên tàu ngầm, cũng như phát hiện vật chất phóng xạ trong nước biển. “Liên Xô đã thành công trong việc định vị các tàu ngầm hạt nhân của họ bằng hệ thống này”, báo cáo của CIA cho biết.
Báo cáo cũng cho biết tàu ngầm thải ra một loạt chất hóa học như kẽm và nickel trong quá trình hoạt động. Dù chỉ có một lượng cực nhỏ trong nước biển, những chất này vẫn có thể bị phát hiện nếu dùng trang bị đo đạc tối tân. Ngoài ra, lò phản ứng hạt nhân cần lượng nước khổng lồ để làm mát. Một số thử nghiệm cho thấy nhiệt độ nước xả ra từ tàu ngầm có thể cao hơn 10 độ C so với môi trường xung quanh.
“Một hệ thống định vị dựa trên các kỹ thuật này có thể phát hiện dấu vết sót lại của tàu ngầm từ trước đó vài giờ”, báo cáo của CIA kết luận.
Theo Duy Sơn (VnExpress)
K-19, tàu ngầm hạt nhân đen đủi nhất của Liên Xô
Với hàng loạt tai nạn từ lúc đóng đến khi loại biên, nhiều người coi K-19 là tàu ngầm bị nguyền rủa của hải quân Liên Xô.
Tàu ngầm K-19 gặp sự cố trên biển năm 1972. Ảnh: Wikipedia.
Cuối thập niên 1950, Liên Xô chế tạo chiếc tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo đầu tiên mang tên K-19 trong nỗ lực cạnh tranh sức mạnh trong lòng biển với Mỹ. Tuy nhiên, hàng loạt sự cố, trong đó có những tai nạn bí ẩn xảy ra trong quá trình đóng tàu khiến chiếc K-19 bị đặt biệt danh "Hiroshima", theo War History.
K-19 là chiếc đầu tiên thuộc Đề án 658. Ngay từ khi khởi đóng, con tàu này đã gặp nhiều trục trặc dẫn tới chết người. Hai công nhân đóng tàu thiệt mạng trong một trận hỏa hoạn năm 1958, trong khi 6 người khác chết ngạt bởi khói sinh ra khi nhúng keo dán cao su vào bể nước. Trong quá trình nạp tên lửa, một kỹ sư bị ống phóng đè chết và một người khác thiệt mạng khi rơi giữa hai khoang tàu.
Sau khi K-19 sẵn sàng vươn khơi năm 1959, một buổi lễ được tổ chức để chào mừng thành tựu mới nhất của Liên Xô, cũng là niềm tự hào của hải quân nước này. Ngược với truyền thống hải quân, một nam quân nhân, thay vì nữ giới, được chọn để đập chai rượu vào tàu trong lễ hạ thủy. Tuy nhiên, chai rượu không vỡ và bị nảy khỏi đuôi tàu. Thủy thủ đoàn coi đây là điềm xấu, cho rằng K-19 đã bị nguyền rủa.
Năm 1960, do sai lầm của thủy thủ, lò phản ứng hạt nhân trên tàu gặp sự cố, khiến một thanh điều khiển quá trình phân hạch bị cong. Việc sửa chữa khiến chuyến ra khơi đầu tiên của K-19 bị hoãn, nhiều thành viên thủy thủ đoàn và cả thuyền trưởng bị giáng cấp. Quyền chỉ huy K-19 sau đó được bàn giao cho đại tá hải quân Nikolai Vladimirovich Zateyev, một sĩ quan đầy năng lực mới được thăng cấp.
Sau vài lần chạy thử nghiệm, K-19 đã bộc lộ hạn chế trong quá trình đóng. Lớp cao su phủ ngoài vỏ tàu bị bung ra, buộc phải sửa chữa thêm trong ụ nổi, hay khoang chứa lò phản ứng hạt nhân bị nước tràn vào. Các lỗi đều bắt nguồn từ thiết kế, nhưng K-19 là một tâm điểm trong cuộc chạy đua vũ trang, nên phần lớn chúng đều bị làm ngơ.
Ngày 30/4/1961, K-19 được biên chế với thủy thủ đoàn 139 người, trước khi thực hiện nhiệm vụ đầu tiên là diễn tập ở Bắc Đại Tây Dương, gần mũi phía nam của đảo Greenland. Tới ngày 4/7/1961, tàu tiếp tục gặp sự cố. Hệ thống làm mát lò phản ứng bị rò rỉ và ngừng hoạt động, khiến nhiệt độ lõi của lò tăng tới ngưỡng nguy hiểm. Hệ thống radio tầm xa cũng bị hỏng, nên thủy thủ không có cách nào để báo cáo tính hình.
Khi đó, K-19 đang hoạt động gần một căn cứ NATO ở Đại Tây Dương. Chỉ huy tàu lo ngại một vụ nổ hạt nhân trên K-19 sẽ khơi mào Thế chiến III. Dù lò phản ứng đã bị ngắt, nhiệt độ trong lò tiếp tục tăng đến 800 độ C, gây nguy cơ phát nổ và cần được làm mát ngay lập tức. Thuyền trưởng Zatayev lệnh cho một nhóm kỹ sư trực tiếp vào khoang chứa lò phản ứng, cắt một van trong lò và nối nó vào đường ống cấp nước.
Chiếc K-19 sau khi bị loại biên vào năm 1990. Ảnh: Wikipedia.
Dù biết nguy cơ nhiễm xạ, nhóm kỹ sư vẫn tuân lệnh và tiến vào khoang chứa lò phản ứng mà không có đầy đủ trang bị bảo hộ. Sự cố được khắc phục, nhưng nhóm kỹ sư bị nhiễm xạ nghiêm trọng và thiệt mạng sau đó một tháng. Hơi nước chứa chất phóng xạ bị giải phóng khi mở khoang chứa lò phản ứng đã thâm nhập vào hệ thống thông khí và lan ra khắp tàu, gây nguy hiểm cho toàn bộ thủy thủ đoàn.
Thuyền trưởng Zatayev hủy nhiệm vụ, cho K-19 tiến về phía nam với hy vọng gặp tàu ngầm Liên Xô gần đó. Một khu trục hạm Mỹ thu được tín hiệu cầu cứu từ K-19 và bắt đầu bám theo. Phía Mỹ đề nghị hỗ trợ nhưng Zatayev từ chối, do ông không muốn người Mỹ nắm thông tin về tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Liên Xô. Tuy nhiên, tình hình ngày một xấu đi, khiến Zatayev không có nhiều lựa chọn.
May mắn là tàu ngầm diesel-điện S-270 của Liên Xô kịp đến nơi và sơ tán thủy thủ đoàn. Chiếc K-19 sau đó được tàu cứu hộ kéo về cảng nhà và trở lại hoạt động sau vài tháng khắc phục sự cố. Trong vòng hai năm tiếp theo, có thêm 15 thủy thủ trên tàu thiệt mạng, còn vận rủi tiếp tục đeo bám tàu ngầm này đến khi nó bị loại biên năm 1990.
Tháng 11/1969, K-19 va chạm với tàu ngầm USS Gato của Mỹ trên biển Barents và bị hư hại nghiêm trọng. Vài năm sau, một vụ hỏa hoạn trên tàu cướp đi mạng sống của 12 thủy thủ. Vì những tai nạn liên tiếp trong 29 năm hoạt động, K-19 bị coi là chiếc tàu ngầm đen đủi nhất của hải quân Liên Xô.
Duy Sơn
Theo VNE
Tham vọng dùng nam châm diệt tàu ngầm Liên Xô của NATO NATO từng có tham vọng thả hàng loạt khối nam châm để phát hiện và vô hiệu hóa tàu ngầm Liên Xô. Tàu ngầm Liên Xô là nỗi sợ hãi cho hải quân các nước NATO. Ảnh: National Interest. Vào thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Lạnh, Liên Xô sở hữu hàng trăm tàu ngầm đầy uy lực, buộc các nhà hoạch...