Liên minh móc túi bệnh nhân
Trong cuộc kinh doanh số phận con người này, các hãng dược không thể thành công nếu không có sự liên minh của giới bác sĩ, nghiên cứu y học, thậm chí là quan chức y tế.
Với những chiến dịch tiếp thị khai thác nỗi sợ hãi của con người về tình trạng lão hoá, bệnh tật và cái chết, nền công nghiệp dược phẩm thế giới hứa hẹn ngày càng ăn nên làm ra, không dừng lại ở con số ước tính 500 tỉ đôla Mỹ như hiện nay.
Một trang quảng cáo cho thuốc hạ cholesterol máu Crestor.
Bắt đầu từ miếng bánh pizza
Hàng chục năm qua, nhà báo y tế nổi tiếng người Úc Ray Moynihan đã nỗ lực điều tra vạch trần chiêu trò làm ăn của những tập đoàn dược phẩm.
Năm 2003, trong bài báo hai kỳ đăng trên tạp chí British Medical Journal có tựa Ai trả tiền món bánh pizza? Xem xét lại quan hệ giữa bác sĩ và công ty dược (Who pays for the pizza? Redefining the relationships between doctors and drug companies), ông cho biết một số nghiên cứu đã chứng minh: ở nhiều quốc gia 80 – 95% bác sĩ thường xuyên tiếp xúc với trình dược viên các hãng thuốc và hậu quả là thói quen kê toa của họ cho bệnh nhân bắt đầu “có vấn đề”.
Theo Moynihan, tất cả thường bắt đầu từ những chiếc bánh pizza miễn phí mà trình dược viên mua bồi dưỡng cho những ca kíp cực nhọc trong bệnh viện. Rồi mức độ trao tặng của công ty dược cho bác sĩ ngày càng tăng, từ quà tặng, vé tham dự hoà nhạc, tài trợ dự hội thảo khoa học đến những chuyến du lịch đắt tiền, thậm chí là tiền bạc thông qua cổ phiếu.
Dĩ nhiên, một khi đã chấp nhận những lợi ích trên, các bác sĩ phải tự hiểu họ chỉ có một nghĩa vụ duy nhất là kê toa. Trong vụ GlaxoSmithKline (GSK) bị phạt 3 tỉ đôla Mỹ vừa qua, tập đoàn này đã thừa nhận hành vi hối lộ bác sĩ và khuyến khích giới này kê các loại thuốc tâm thần không phù hợp cho trẻ em. Nếu tham gia “cuộc chơi”, bác sĩ và người thân sẽ được du lịch đắt tiền ở khách sạn năm sao, chơi lướt ván, đánh golf, câu cá và những hoạt động khác do GSK chi trả. Theo điều tra, trong năm 2000 và 2001, GSK đã tổ chức tám sự kiện quảng cáo thuốc kéo dài ba ngày rất hấp dẫn cho bác sĩ tại Puerto Rico, Hawaii và Palm Springs – California. Khi tham dự, mỗi bác sĩ còn được bỏ túi 750 đôla và mỗi báo cáo viên 2.500 đôla Mỹ.
Video đang HOT
Không chỉ GSK mà nhiều tập đoàn dược phẩm cũng áp dụng chiêu trò trên. Năm qua Bristol-Myers Squibb đã bị chính quyền Mỹ kết tội lại quả tiền bạc, dùng quà tặng và các chuyến du lịch để đánh đổi việc bác sĩ kê các loại thuốc đắt tiền như Plavix, Abilify và Avapro, các sản phẩm chiếm hơn một nửa doanh thu 19,5 tỉ USD của hãng trong năm trước đó. Tính ra kể từ năm 1999 – 2005, hãng này đã lại quả tiền cho bác sĩ gần 15.000 lần!
Đủ chiêu moi tiền bệnh nhân
Vào cuối những năm 1990, sản phẩm Prozac – tên hoá học fluoxetine – của tập đoàn dược Lilly sắp hết bản quyền. Tập đoàn này đứng trước nguy cơ mất hàng trăm triệu đôla vì sự xuất hiện của những đối thủ generic (thuốc gốc) có giá rẻ. Năm 1998, Lilly tổ chức một hội thảo “bàn tròn” gồm các nhà nghiên cứu để bàn luận về PMDD, một hình thức nặng của hội chứng tiền mãn kinh. Hội thảo gồm 16 chuyên gia hàng đầu của FDA và bốn đại diện của Lilly. Suốt một năm sau đó, nội dung hội thảo xuất hiện trên nhiều tạp chí y học để rồi sau cùng người ta phải đi đến đồng thuận rằng PMDD là “một tổng thể lâm sàng riêng biệt”. Cuối năm 1999, ban cố vấn của FDA chấp thuận cho fluoxetine của Lilly sử dụng để điều trị PMDD. Lần này nó không còn mang tên Prozac mà có tên Sarafem với dạng viên màu tím và hồng nhạt!
Trong thực tế, tiền bạc mà những công ty dược bỏ ra “thuê” bác sĩ kê toa được tính vào túi bệnh nhân. Một nghiên cứu ở Na Uy ước tính hàng năm nước Anh có thể tiết kiệm hơn 100 triệu đôla và nước Mỹ tiết kiệm 500 triệu đến 1 tỉ USD nếu bác sĩ kê cho bệnh nhân các loại thuốc giá rẻ. Một nghiên cứu của Úc cũng cho thấy người dân nước này tiết kiệm được 100 triệu đôla mỗi năm nếu bác sĩ kê cho họ các loại thuốc cũ nhưng hiệu quả tương đương.
Đánh bật mọi rào cản
Không chỉ với bác sĩ, bằng tiền bạc thừa mứa, các tập đoàn dược phẩm còn cắt đứt được những mắt xích quan trọng khác của hệ thống bảo vệ sức khoẻ con người. Theo Ray Moynihan, có đến 60% nghiên cứu y sinh học và phát triển ở Mỹ được tài trợ bởi tư nhân mà đa phần là công ty dược phẩm. Trong vài lĩnh vực như thí nghiệm thuốc trầm cảm, con số này thậm chí lên đến 100% và hầu như tất cả thử nghiệm lâm sàng về thuốc trầm cảm mới đều được tài trợ bởi những công ty dược thay vì các quỹ công hoặc phi lợi nhuận. Trong trường hợp này, giá trị khách quan của nghiên cứu là một câu hỏi lớn vì xung đột lợi ích là quá rõ.
Ngay cả những người nổi tiếng, các giáo sư có ảnh hưởng lớn trong giới y khoa cũng bắt tay với hãng dược để buôn bán bệnh tật. Năm 2004, dân Mỹ đã căm giận tột cùng về hành động trơ trẽn của TS H. Bryan Brewer, bác sĩ và nhà khoa học hàng đầu của viện Sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ. Tại một hội thảo của hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, Brewer nhận xét Crestor, sản phẩm dùng hạ cholesterol máu của tập đoàn dược AstraZeneca, “an toàn và hiệu quả cho người dùng”. Ý kiến này được đánh giá là có giá trị đến nỗi được tạp chí Tim mạch Hoa Kỳ đăng lại trong một số đặc biệt cho giới y khoa nghiền ngẫm, đúng vào dịp Crestor được tung ra thị trường. Trớ trêu thay, sau đó người ta phát giác Brewer cũng là cố vấn được AstraZeneca… trả tiền. Một số nhà khoa học còn phát hiện Brewer cố ý không đề cập đến một số tác dụng phụ chết người của Crestor!
Quan chức y tế, những người phòng thủ sau cùng, cũng bị “hạ gục” dễ dàng bởi các tập đoàn dược phẩm. Năm 2004, khi định nghĩa về tăng cholesterol trong hướng dẫn trị liệu (guideline) của viện Sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ được xem xét lại, đột nhiên 4 triệu người dân nước này bị liệt vào diện phải dùng các thuốc hạ cholesterol. Thế nhưng sau đó mọi người mới vỡ lẽ tám trong chín chuyên gia thực hiện hướng dẫn trị liệu là những người chuyên đi báo cáo, nghiên cứu và cố vấn được trả tiền bởi các ông trùm dược phẩm như Pfizer, Merck, Bristol-Myers Squibb, Novartis, Bayer, Abbott, AtraZeneca và GSK. Mối liên hệ này không được nói đến trong hướng dẫn trị liệu được công bố cho công chúng, cho đến khi báo chí phát hiện.
Theo VNE
Trò kinh doanh bệnh tật của các tập đoàn dược phẩm
Việc hãng dược khổng lồ laxoSmithKline (GSK) bị phạt 3 tỉ đô được coi là vụ lừa đảo y tế lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ và nó đã vạch trần bộ mặt thật của những người nhân danh bảo vệ sức khoẻ con người nhưng thực chất là những kẻ buôn bán bệnh tật.
Phát biểu trên tạp chí Fortune trước khi về hưu vào năm 1976, Henry Gasden, giám đốc điều hành của Merck, một trong những tập đoàn dược phẩm lớn nhất thế giới, thổ lộ giấc mơ biến Merck thành một công ty sản xuất kẹo cao su như Wrigley, nghĩa là bán thuốc cho mọi người, không chỉ người bệnh mà cả... người khoẻ!
Trong phán quyết ngày 2/7, bộ Tư pháp Mỹ khẳng định GSK đã tiếp thị trên thị trường những loại thuốc chưa được cấp phép, che giấu những dữ liệu liên quan đến độ an toàn của các loại dược phẩm và có hành vi hối lộ liên quan tới chương trình Medicaid của Chính phủ Mỹ.
Mở rộng ranh giới bệnh
Năm 2003, trong một bài báo có tựa đề Nghệ thuật tạo ra một thân phận (tạm dịch từ The Art of Branding a Condition), Vince Parry, một trong những chuyên gia nổi tiếng về quảng cáo thuốc, đã tiết lộ bí quyết hợp tác với các hãng dược phẩm để thúc đẩy sự "tạo ra những rối loạn y học". Chiến lược của Parry gồm ba bước: nâng cao tầm quan trọng của những triệu chứng bệnh tật, định nghĩa lại một thân phận đang hiện hữu và "phát triển một thân phận mới cho một nhu cầu thị trường chưa được khai thác".
Bất công về tiêu thụ dược phẩm Theo các nhà nghiên cứu, tâm điểm của chuyện "buôn bán bệnh tật" là nước Mỹ. Vì dù chỉ chiếm 5% dân số thế giới, người Mỹ tiêu thụ tới 50% thị trường thuốc kê đơn toàn cầu. Trong hai thập kỷ qua, người Mỹ chi cho thuốc men bằng hoặc nhiều hơn chi cho giáo dục đại học và mua xe hơi. Một nghiên cứu vào năm 2005 cho thấy người Mỹ thừa nhận họ sử dụng thuốc kê toa nhiều hơn gấp đôi kể từ năm 1992 - 2003. Trong khi đó, ở nhiều nước đang phát triển, con người lại không có thuốc để dùng. Ở vùng hạ Sahara của châu Phi, 500 triệu người dân nghèo khổ đang đối mặt với những căn bệnh nhiệt đới hoàn toàn có thể phòng ngừa và chữa trị được như bệnh giun móc và sán máng.
Thật ra chiến lược làm ăn của Parry và các hãng dược phẩm không lạ bởi nó đã được Lynn Payer đề cập từ năm 1992 bằng thuật ngữ "buôn bán bệnh tật" (tạm dịch từ "disease-mongering"). Theo nhà báo y tế người Mỹ này, đây là một tiến trình gồm nhiều hình thức khác nhau nhằm gia tăng sự tiêu thụ dược phẩm trong đó có việc đưa ra những yếu tố nguy cơ mới về bệnh tật, biến những vấn đề sức khoẻ nhẹ thành vấn đề nghiêm trọng, mở rộng những định nghĩa bệnh tật sẵn có và tạo ra những dạng bệnh tật mới.
Trong nhiều thập kỷ, các hãng dược phẩm khai thác tối đa chiến lược "buôn bán bệnh tật" này: đỏ mặt trở thành dấu hiệu của chứng rối loạn lo âu xã hội, mãn kinh - sự thay đổi tự nhiên của cuộc sống - biến thành một tình trạng thiếu hụt hoóc-môn, những khó khăn tình dục đời thường bị nhào nặn thành rối loạn chức năng tình dục, phụ nữ trung niên được cảnh báo bởi một căn bệnh xương tiềm ẩn gọi là loãng xương, còn nam giới trung niên được cảnh báo về tình trạng tăng cholesterol máu.
Khó biết được chính xác các hãng dược phẩm đã bỏ túi bao nhiêu trong trò kinh doanh bệnh tật, nhưng chỉ riêng món thuốc hạ cholesterol máu là statin, hàng năm các đại gia như Bayer (Đức), AstraZeneca (Anh - Thuỵ Sĩ) và Pfizer (Mỹ) đã ẵm gọn 25 tỉ đôla Mỹ! Doanh số chắc chắn không dừng lại ở đây khi định nghĩa tăng cholesterol của viện Sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ được điều chỉnh xoành xoạch: dựa vào định nghĩa của năm 2001, nước Mỹ có 36 triệu người được cảnh báo tăng cholesterol và cần uống thuốc, nhưng với định nghĩa cập nhật năm 2004 con số đó tăng lên 40 triệu người! Có thêm nhiều bệnh nhân, các hãng dược phẩm càng có thêm tiền.
Tiếp thị nỗi sợ hãi và quảng cáo láo
FDA phát hiện thuốc chữa bệnh tiểu đường này của GSK che giấu số liệu an toàn.
Trong cuốn Buôn bán bệnh tật: Làm thế nào những công ty dược phẩm lớn nhất thế giới biến chúng ta thành bệnh nhân (Selling sickness: How the world's biggest pharmaceutical companies are turning us all into patients), nhà báo Ray Moynihan và nhà nghiên cứu chính sách Alan Cassels cho biết, mặc dù có nhiều chiến dịch "buôn bán bệnh tật" khác nhau, nhưng nhìn chung người ta thường dùng cách tiếp thị nỗi sợ hãi đến người tiêu dùng.
Theo đó, nỗi sợ bị nhồi máu cơ tim được sử dụng để hù doạ phụ nữ khi cho rằng hội chứng tiền mãn kinh của họ cần phải áp dụng liệu pháp thay thế hoóc-môn. Tương tự, các bậc cha mẹ bị hù doạ rằng con cái họ có thể tự tử nếu những cơn trầm cảm nhẹ không được điều trị bởi những loại thuốc mạnh. Và nguy cơ chết sớm được dùng hù doạ cánh đàn ông nếu họ không sử dụng thuốc hạ cholesterol để điều trị tình trạng tăng cholesterol.
Theo Moynihan và Cassels, trong khi tung ra những chiến dịch hù doạ, các công ty dược phẩm cũng che giấu sự thật về các vấn đề sức khoẻ và sản phẩm thuốc. Đơn cử với tình trạng tăng cholesterol máu, ngày nay y học gần như thừa nhận rằng đây chỉ là một trong nhiều yếu tố có thể làm phát sinh bệnh tim mạch. Ấy vậy mà hầu như ai cũng chăm chú vào tình trạng tăng cholesterol vì đơn giản nó có thể được điều chỉnh bởi thuốc. Chuyên gia về lĩnh vực y tế công cộng và bệnh tim mạch, giáo sư nổi tiếng người Anh Shah Ebrahim, khẳng định những loại thuốc hạ cholesterol - nhóm statin - hiệu quả với những ai có sẵn vấn đề tim mạch. Còn những ai chưa có vấn đề này, nên áp dụng những giải pháp rẻ tiền và hiệu quả hơn như cải thiện chế độ ăn, siêng năng tập luyện và ngừng hút thuốc.
Thế nhưng khi quảng cáo thuốc đến người tiêu dùng, hầu như không hãng dược phẩm nào nói lên sự thật này chứ chưa nói đến chuyện công khai sự thật về tác dụng phụ của thuốc để mọi người nắm rõ. Năm 2001, Bayer phải thu hồi loại statin có tên Baycol khi sản phẩm này làm 52 người thiệt mạng và hơn 6 triệu người trên toàn thế giới đối mặt với tác dụng phụ tan cơ sau sử dụng thuốc. Có nhiều bằng chứng cho thấy Bayer biết rõ những nguy cơ trên, nhưng họ vẫn bỏ qua vì yếu tố lợi nhuận.
Câu chuyện GSK tuần qua cũng là một minh chứng về trò quảng cáo láo. Qua điều tra, cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) phát hiện hãng dược phẩm này đã che giấu các số liệu về sự an toàn của thuốc chữa bệnh tiểu đường Avandia. Với hai loại thuốc chống trầm cảm Paxil và Wellbutrin, sự việc tồi tệ hơn nhiều: họ quảng cáo sử dụng Paxil cho trẻ em trong khi nghiên cứu sau đó cho thấy thuốc có nguy cơ khiến trẻ em muốn tự sát, còn với Wellbutrin dù thuốc chỉ chữa được bệnh trầm cảm nhưng lại được quảng cáo chữa cả chứng tăng cân và giảm ham muốn tình dục!
Theo dantri
Thuốc từ mồ hôi, máu, não, gan người chữa bá bệnh! Loại thuốc thịt người xuất sứ từ Trung Quốc vừa gây chấn động y học thế giới tuy nhiên chiều dài lịch sử của con người cũng từng tồn tại một trường phái y học kỳ dị trong đó các bác sĩ không ngần ngại kê cho bệnh nhân của mình những đơn thuốc thịt người để "đẩy lùi mọi căn nguyên của...