Liên hợp quốc sẵn sàng làm trung gian hòa giải cho tranh chấp Biển Đông
Liên hợp quốc cho biết cơ quan này sẵn sàng làm trung gian hòa giải cho cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam ở Biển Đông.
Một tàu của Trung Quốc (phải) đang cản trở một tàu Việt Nam đang làm nhiệm vụ trong vùng lãnh hải Việt Nam. (Ảnh AP)
Phát ngôn viên Liên hợp quốc Stephane Dujarric ngày 10/6 cho hay, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon sẵn sàng làm trung gian hòa giải nếu các bên có liên quan yêu cầu, hãng tin NHK của Nhật Bản đưa tin.
Cũng theo nguồn tin trên, ông Dujarric nói rằng Tổng thư ký Liên hợp quốc bày tỏ hi vọng rằng cuộc tranh chấp sẽ được giải quyết hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế.
Hãng tin BBC ngày 11/6 cũng dẫn lời người phát ngôn Dujarric kêu gọi hai bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và tuân thủ luật pháp.
Video đang HOT
Các bình luận trên diễn ra trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông đang ngày càng leo thang sau khi Trung Quôc hạ đặt trái phép một giàn khoan dầu trong vùng lãnh hải của Việt Nam từ đầu tháng 5.
Ngày 9/6, Trung Quốc lại thực hiện một hành động trơ trẽn để biện hộ cho hành vi ngang ngược ở Biển Đông khi phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc, Wang Min, gửi một bản tuyên cáo đề cập đến hoạt động của giàn khoan Hải Dương-98 lên Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon và yêu cầu Liên hợp quốc cho lưu hành văn bản này tới 193 thành viên của Đại hội đồng.
Trung Quốc còn vu cáo Việt Nam sử dụng “các biện pháp bất hợp pháp và gây hấn” trong đó có cả việc điều các tàu vũ trang sẵn sàng đâm, va, gây cản trở hoạt động của giàn khoan Trung Quốc.
Trên thực tế, Việt Nam đã công bố các bằng chứng cho thấy chính các tàu của Trung Quốc đã hung hăng đâm va và phun vòi rồng vào các tàu của Việt Nam, khiến nhiều tàu bị hư hại và nhiều người bị thương. Trung Quốc thậm chí còn đâm chìm một tàu cá của Việt Nam hoạt động gần giàn khoan Hải Dương-981.
Trước đó, vào 6/6, tai tru sơ chinh cua Liên hơp quôc ơ thanh phô New York, My, Đai sư Lê Hoai Trung, Trương Phai đoan Đai diên thương trưc Việt Nam tai Liên hợp quốc, đã lần thứ 3 gửi thư lên Tông Thư ky Liên hợp quốc Ban Ki-moon kem theo Công ham cua Bô Ngoai giao Việt Nam gưi Bô Ngoai giao Trung Quôc, phan đôi viêc Trung Quôc tiêp tuc duy tri gian khoan Hai Dương-981và cac tau hô tông trong vung đăc quyên kinh tê và thềm lục địa cua Viêt Nam.
Đai sư Lê Hoai Trung đa đê nghi Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon cho lưu hanh Công ham trên như môt tai liêu chinh thưc cua Khoa 68 Đai hôi đông Liên hợp quốc, gửi đến tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc, tương tư như 2 Công ham trươc đo cua Bô Ngoai giao Việt Nam gưi Bô Ngoai giao Trung Quôc, cưc lưc phan đôi hanh đông ngang ngươc kê trên cua phia Trung Quôc.
Theo Dantri
Trường Sa, Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam - Tư liệu lịch sử
Chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa từ các chứng cứ lịch sử - Tài liệu cổ của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý.
Các tài liệu do Việt Nam nắm giữ khẳng định sự hiểu biết từ lâu đời đối với hai quần đảo. Sự hiểu biết này đã chuyển hóa thành sự chiếm hữu thực sự từ thế kỷ XVIII. Theo đó, các đảo và quần đảo đã được đề cập từ rất lâu đời. Đó là các bản đồ có lẽ được lập từ cuối thế kỷ XV - thời vua Lê Trang Tông có nói đến quần đảo Hoàng Sa đã được Viện Nghiên cứu lịch sử in lại, cũng trong các tập Hồng Đức bản đồ được lưu trữ tại Nhật Bản niên đại từ thế kỷ XVII.
Trung Hoa Dân quốc tối tân địa đồ của Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch cũng không có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Những dấu vết đầu tiên khẳng định về một quyền đã xuất hiện trong cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, điều này đánh dấu niên đại của những dấu hiệu pháp lý chắc chắn đầu tiên từ thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm của nhà bách khoa với chức vụ Hiệp trấn, các quần đảo đã được mô tả (phải đi ba ngày đêm mới đến được, các quần đảo đã được xác định khá chính xác) và nói đến hoạt động khai thác có tổ chức của các chúa An Nam.
Người ta tìm thấy ở đây bản kê khai các tài nguyên thu lượm được việc khai thác này sau khi đã tham khảo các sổ đăng ký của chúa nhà Chúa có ghi ngày: "Tôi từng tra khảo số biên của cai đội Thuyên Đức Hầu ngày trước như sau: năm Nhâm Ngọ (1702), đội Hoàng Sa thu lượm được 30 thỏi bạc; năm Giáp Thân (1704), thu lượm được 5.100 tấn thiếc; năm Ất Dậu (1705), thu lượm được 126 thỏi bạc. Còn từ năm Kỷ Sửu (1709) đến năm Quý Tỵ (1713), tức là trong khoảng 5 năm, thỉnh thoảng họ cũng lượm được mấy cân đồi mồi và hải sâm. Cũng có lần chỉ lượm được mấy cái bát sành và hai khẩu súng đồng.
Cũng tác giả này đã thuật lại những sự kiện trước kia đã từng được các nhà sử học biết đến như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan và thủy binh của các chúa Nguyễn 1643 - 1644. Các sự kiện này chứng tỏ các chúa An Nam đã có một lực lượng hải quân hiệu quả và rất chú ý tới việc kiểm soát trên biển. Điều này liệu có đưa đến việc nghĩ rằng việc khai thác có tổ chức có lẽ đã có từ lâu mà các cuốn sổ ghi chép chính xác này không nói đến? Không thể bảo vệ điều này vì không có đủ các bằng chứng trước đó.
Ngược lại, từ đầu thế kỷ XVIII, các bằng chứng về việc cai quản của chúa An Nam đã được xác lập tốt. Như vậy, khi ông Le Fol, Khâm sứ Pháp tại Trung Kỳ viết cho Toàn quyền Đông Dương ngày 22/1/1929 rằng "quần đảo (Hoàng Sa) dường như vẫn còn là res nullius (đất vô chủ) cho đến đầu thế kỷ trước" và cho biết trong văn kiện này các chỉ dẫn về hành vi cai quản các đảo được các triều đại trước đây thực hiện từ đầu thế kỷ XIX. Luận điểm này của ông Le Fol là của một con người đang đảm nhiệm chức vụ ở một miền của Việt Nam, trực tiếp liên quan đến khía cạnh lịch sử của các vấn đề đó, chắc hẳn là dựa trên sự hiểu biết nhất định về các hồ sơ. Tuy nhiên, sự hiểu biết của ông không đủ để xác định ngày tháng của các hành vi cai quản của An Nam với tất cả các mức độ chính xác mà việc xem xét đầy đủ hồ sơ cho phép.
Đặt mình vào thế kỷ XVIII, người ta có thể bảo vệ được rằng cho tới thời điểm đó, sự tồn tại của các đảo Hoàng Sa đã được biết đến một cách rộng rãi, rằng Trung Quốc không thể viện dẫn bất kỳ sự chiếm hữu nào phù hợp với các tiêu chuẩn đã được nêu ở trên, rằng cuốn sách của Lê Quý Đôn ở Việt Nam là tư liệu đầu tiên nêu lên các hành vi tương ứng với một sự quản lý nhất định quần đảo, đó là sự quản lý có niên đại từ những năm đầu của thế kỷ XVIII. Đối với các đảo Trường Sa, sự tồn tại của chúng chắc chắn đã được biết đến cho dù còn chưa xác lập rõ sự khác biệt của chúng với quần đảo Hoàng Sa (trong các tài liệu được tiếp xúc). Không có gì cho phép khẳng định rằng Trung Quốc đã chiếm hữu các đảo này. Việc quản lý các đảo ở Trường Sa đồng thời với các đảo ở Hoàng Sa.
Theo Baotintuc.vn
Triển lãm hình ảnh tàu cá bị tàu Trung Quốc đâm chìm Nhằm tuyên truyền để nhân dân Đà Nẵng nói riêng và dư luận nói chung thấy hành động vô nhân đạo của Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam, Bảo tàng Đà Nẵng đã trưng bày các hình ảnh và clip về tàu cá ĐNa 90152 bị tàu Trung Quốc đâm chìm. Chiều 11/6, Bảo tàng Đà Nẵng chính thức trưng bày...