Lập luận pháp lý về chủ quyền biển đảo luôn cần thiết
Đó là khẳng định của GS-TS Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM, trước thềm hội thảo quốc tế “Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng biển VN”. Bà cho biết thêm:
GS-TS Mai Hồng Quỳ – Ảnh: D.Đ.M
Từ ngày 2.5.2014, Tổng công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN. Sự kiện này đã gây ra nhiều hệ quả không mong muốn cho quan hệ kinh tế, chính trị, thương mại của hai nước VN và Trung Quốc nói riêng, hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không và thương mại quốc tế nói chung. Với tư cách là một trung tâm nghiên cứu, đào tạo luật, ĐH Luật TP.HCM đã phối hợp Hội Luật gia VN chuẩn bị tổ chức hội thảo quốc tế “Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng biển VN”, sẽ diễn ra vào ngày 26.7 tới đây tại TP.HCM.
Hội thảo là diễn đàn để giới học giả, luật sư, luật gia có uy tín, tên tuổi trong nước và quốc tế ở lĩnh vực luật Biển bày tỏ quan điểm, thảo luận, lập luận pháp lý đối với chủ đề nêu trên. Thông qua hội thảo, các thông tin, tài liệu về sự kiện liên quan được thông tin đầy đủ và xem xét một cách khách quan bởi giới học giả, chuyên gia các nước và quốc tế.
150 đại biểu tham gia Đến thời điểm này đã có khoảng 150 đại biểu xác nhận tham dự hội thảo, trong đó trên 30 học giả đến từ các trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học lớn của Mỹ, Liên bang Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên minh châu Âu, ASEAN…
Hiện Trung Quốc đã dịch chuyển giàn khoan Hải Dương-981 ra khỏi vùng biển VN. Vậy việc tổ chức hội thảo có còn cần thiết hay không?
Video đang HOT
Việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN là một sự kiện đã xảy ra trong thực tế. Hành động này rõ ràng đã tạo ra một tiền lệ xấu trong thực tiễn của quan hệ pháp luật quốc tế. Do đó, việc phân tích, đánh giá, xem xét sự kiện này từ góc độ pháp luật quốc tế có ý nghĩa chính trị, pháp lý quan trọng. Hội thảo lần này mang tính khoa học cao. Các học giả trong và ngoài nước sẽ nghiên cứu, đánh giá không chỉ các quy định trong các văn bản pháp luật quốc tế nói riêng mà cả các luận thuyết của khoa học pháp lý nói chung. Đặc biệt, nhiều báo cáo tại hội thảo sẽ giới thiệu, phân tích kinh nghiệm của các nước trong việc giải quyết các sự việc tương tự. Và điều đó là cần thiết.
Có ý kiến cho rằng, mặc dù Trung Quốc đã dịch chuyển giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN thì chúng ta vẫn phải tiếp tục chuẩn bị chu đáo cho những căn cứ pháp lý cần thiết về chủ quyền biển đảo trước cộng đồng quốc tế. Quan điểm của bà về vấn đề này như thế nào?
Quyền thể hiện ý chí bảo vệ chủ quyền của đất nước VN, dân tộc VN là quyền thiêng liêng, quyền không thể đánh đổi được. Chúng ta cũng có quyền được nhận một phán quyết công minh, công bằng thông qua các chế định tài phán quốc tế, khi cần thiết. Vấn đề là chúng ta sử dụng quyền ấy như thế nào để vẫn đảm bảo một môi trường ổn định, hòa bình, hữu nghị cho đất nước ổn định và phát triển. Việc khởi kiện như thế nào, vào thời điểm nào, do vậy, theo chúng tôi chắc chắn sẽ được cân nhắc một cách hết sức thận trọng. Tuy vậy, quá trình chuẩn bị để thực hiện quyền thiêng liêng ấy phải được tiến hành một cách nghiêm túc. Việc nghiên cứu, tập hợp hồ sơ, nắm rõ kinh nghiệm xử lý cũng như tranh thủ sự ủng hộ của các nước… là những điều kiện không thể thiếu. Chúng ta cũng đã yêu cầu Trung Quốc không tái hạ đặt giàn khoan vào vùng biển chủ quyền VN; qua đó đã khẳng định quan điểm đấu tranh mềm mỏng nhưng kiên quyết, kiên trì trong vấn đề này. Chúng tôi cho rằng, dù thế nào đi nữa, không ai có thể xem thường luật pháp quốc tế, bỏ qua chính nghĩa, mà chính nghĩa của chúng ta đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận, ủng hộ.
Đã từng có nhiều hội thảo tương tự được tổ chức liên quan đến vấn đề chủ quyền của chúng ta tại biển Đông. Vậy điểm mới của hội thảo lần này là gì?
Điểm mới của hội thảo quốc tế lần này là sẽ tập trung thảo luận, trao đổi, bày tỏ quan điểm về các khía cạnh pháp lý của sự kiện hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 vừa qua trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN. Hội thảo không chỉ gồm các ý kiến tham khảo về các biện pháp chính trị, ngoại giao mà còn tập trung nghiên cứu, lấy kinh nghiệm từ các chuyên gia quốc tế trong việc sử dụng các biện pháp pháp lý để giải quyết vụ việc.
Theo TNO
60 năm Hiệp định Genève (1954 - 2014) - Kỳ 5: Cuộc chia ly trong những cuộc chia ly
Là một người lãnh đạo cấp cao của Đảng, gia đình Tổng bí thư Lê Duẩn cũng chịu cảnh chia ly sau khi hiệp định Genève được ký kết.
Tổng bí thư Lê Duẩn và một số người con, cháu vào năm 1982 - Ảnh: Gia đình cung cấp
Trở lại miền Nam
Thời điểm hiệp định ký kết, Tổng bí thư Lê Duẩn, được nhiều vị lãnh đạo thân mật gọi là anh Ba, là Ủy viên Bộ Chính trị, giữ cương vị Bí thư Xứ ủy Nam bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam).
Chúng tôi đã trực tiếp trò chuyện với ông Lê Kiên Thành (một trong những người con của ông Lê Duẩn). Ông Thành sinh năm 1955, con của bà Nguyễn Thụy Nga - người vợ miền Nam của Tổng bí thư LêDuẩn. Từ những chia sẻ của cha mẹ và gia đình trong những năm tháng lớn lên và trưởng thành, cho đến giờ ông Thành vẫn còn nhớ nhiều chuyện về những tháng ngày đặc biệt của lịch sử dân tộc.
Lần đầu tiên ông Thành công bố lá thư tay của Tổng bí thư Trường Chinh viết ngày 22.7.1954 gửi cho cha ông (sau khi hiệp định ký kết 1 ngày). Lá thư có đoạn: "Anh Ba! Tin thắng lợi ngoại giao anh đã rõ. Nhưng đây mới là thắng lợi bước đầu, còn phải đấu tranh gay go, phức tạp nhiều nữa mới đạt được mục tiêu của chúng ta. Vấn đề trước mắt bây giờ là tuyên truyền, giải thích cho cán bộ, bộ đội và đồng bào để đánh thông tư tưởng, đạt tới sự nhất trí, trên dưới một lòng chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Bác, của Trung ương và Chính phủ (...) Thì giờ gấp quá không viết được nhiều. Mong anh vào Nam bộ thuyết phục cho anh chị em và bà con trong đó nhận rõ vấn đề đình chiến và điều chỉnh khu vực đóng quân, có kết quả tốt". Lá thư cũng đề cập việc ông Lê Duẩn vào nam là do chỉ thị của Bác Hồ và Bộ Chính trị. Lý do là "vì chúng tôi biết rằng cán bộ, đồng bào trong nam rất tin tưởng ở anh; việc giải thích trong đó rất là khó, cần phải người có uy tín" (trích thư).
Ông Thành nói: "Mẹ tôi có kể lại, khi về miền Nam, qua những lần tiếp xúc với cán bộ, gặp gỡ đồng bào, thấy trong lớp người ở lại có người lo âu, cha tôi càng băn khoăn ray rứt. Một luồng ý kiến rộ lên lúc đó là ta ráng thêm chút nữa là thống nhất luôn miền Nam, vì ngoài bắc chúng ta thắng lớn trận Điện Biên Phủ, còn trong nam thì đã kiểm soát được phần lớn địa bàn. Một điều đáng tiếc là lúc đó có sự can thiệp của nước lớn. Gần đến thời điểm ký kết hiệp định, phía ta mới được mời vào bàn đàm phán. Điều này hoàn toàn khác xa so với việc ký hiệp định Paris sau này là chúng ta hoàn toàn trên thế thắng". "Bài học lớn nhất mà cha tôi cảm nhận được từ hiệp định Genève là không bao giờ để vận mệnh đất nước, dân tộc nằm trong tay người khác, để người khác quyết định", ông Thành nói thêm.
Ngày ngày xuôi ngược các dòng kênh
Theo lời kể của ông Thành, trước ngày 21.7.1954, ông Lê Duẩn lên đường ra bắc báo cáo với Bác Hồ và Trung ương tình hình toàn miền Nam để cùng thống nhất lại những điều khoản quan trọng làm tinh thần cốt lõi phục vụ cho cuộc đàm phán. Ra đến miền Trung (thuộc địa bàn Khu 5) thì bất ngờ hay tin hiệp định đã ký kết. Trên đường quay trở lại miền Nam, nhìn hai bên đường có nhiều người đưa hai ngón tay lên vui vẻ chào nhau (như một lời hẹn hai năm sau sẽ đoàn tụ trong ngày đất nước thống nhất), ông đã bật khóc. Bởi là người trong cuộc, ông dự liệu ngày đó sẽ không dễ dàng đến được, và rồi đây sẽ phải đối mặt, ứng phó với một chặng đường dài đầy cam go phía trước.
Đúng như dự liệu, ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào năm 1956 đã không đến theo lộ trình cam kết trước đó của hiệp định Genève. Những tháng ngày ở lại miền Nam của Bí thư Xứ ủy Nam bộ gian nan và nguy hiểm đến tột cùng. Là một người lãnh đạo cấp cao của Đảng, gia đình "anh Ba" cũng chịu cảnh chia ly sau khi hiệp định Genève được ký kết.
Ông Thành bồi hồi nhớ lại: "Chuyến tàu Kéreinsky của Ba Lan là chuyến áp chót, chở khoảng 2.000 người, trong đó có gia đình tôi và bác Sáu Thọ (ông Lê Đức Thọ khi đó là Phó bí thư Xứ ủy Nam bộ) đi tập kết. Suốt quãng đường đi lên tàu, cha tôi không hề nói gì về việc ông sẽ ở lại, có lẽ vì sợ mẹ và chị tôi (bà Lê Vũ Anh) lo lắng quá mức, đi không đành. Khoảng 12 giờ đêm tàu nhổ nheo, cha tôi mới ôm hôn, nước mắt in dấu mặt mẹ tôi, nói: "Anh thương vợ con anh như thế nào thì anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế đó, cho nên anh phải ở lại. Em ra miền Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người". "Sau này, khi gặp lại vợ con, những lúc tâm tình trong gia đình, cha tôi trước sau luôn căn dặn một điều là để có cuộc sống đúng nghĩa phải sống với nguyên tắc tình thương, lao động và lẽ phải", ông Thành nói thêm về một kỷ niệm với người cha.
Dù Bí thư Xứ ủy Nam bộ bí mật ở lại miền Nam nhưng sau đó phía địch vẫn phát hiện, vì như lời kể của ông Thành, "qua theo dõi họ không thấy Bí thư Xứ ủy Nam bộ xuất hiện ở miền Bắc hay ở đâu cả". Những cuộc "khủng bố trắng" từ đó bắt đầu. "Thoát được những cuộc "khủng bố trắng", bố tôi kể là nhờ may mắn, sự cảnh giác của bản thân, nhưng đặc biệt là nhờ sự kiên trung của những cán bộ, chiến sĩ thân cận. Có những năm tháng cha tôi để râu dài để ngụy trang. Ngày ngày cứ ở trên xuồng xuôi ngược các dòng kênh nhằm tránh sự truy lùng, bắt bớ".
Dự liệu sẽ ở lại miền Nam 20 năm để đấu tranh vì khát vọng hòa bình, thống nhất nhưng 4 năm sau ngày hiệp định Genève ký kết, ông Lê Duẩn ra bắc theo sự điều động của Trung ương. Trở lại miền Nam vào trưa 8.5.1975 cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, theo hồi ức của ông Sáu Dân (Thủ tướng Võ Văn Kiệt), trước nhiều vị lãnh đạo hai miền, ông đã thẳng thắn bộc bạch ngay khi vừa xuống sân bay Tân Sơn Nhất: "Không một người nào được nói chiến công này là của mình. Để giải phóng được riêng Sài Gòn này đã có mấy ngàn bà mẹ mất con rồi...".
Theo TNO
Phu nhân Chủ tịch nước ăn cơm 2.000 đồng với người nghèo Trưa 4.7, bà Mai Thị Hạnh, phu nhân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, đã đến quán cơm Nụ cười 1 (số 6 Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, TP.HCM) ăn cơm trưa cùng với người nghèo. Bà Mai Thị Hạnh (thứ 2, hàng bên phải) ăn cơm 2.000 với người nghèo - Ảnh: Diệp Đức Minh Quán cơm Nụ cười...