Lao động trong khu vực dịch vụ phục hồi mạnh
“Quý I/2022, tình hình lao động, việc làm có nhiều chuyển biến tích cực. Hiện có khoảng 50 triệu người có việc làm, tăng 962.600 người so với quý IV/2021, trong đó, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 38,7%, tương đương 19,4 triệu người”, Báo cáo “Tình hình lao động lao động việc làm Quý I/2022″ của Tổng Cục Thống kê cho biết.
Ảnh minh họa
Có việc làm tăng nhanh, chủ yếu phi chính thức
Công bố “Tình hình lao động, việc làm quý I/2022″ diễn ra ngày 12/4, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Trung Tiến cho biết: Quý I/2022, nền kinh tế dần mở cửa trở lại và có nhiều chuyển biến tích cực, nhờ đó thị trường lao động của Việt Nam đã dần phục hồi trở lại.
Cụ thể, có khoảng 50 triệu người có việc làm, tăng 962.600 người so với quý IV/2021. Trong đó, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 38,7%, tương đương 19,4 triệu người. Số người thiếu việc làm trong độ t.uổi quý I/2022 là khoảng 1,3 triệu người, giảm 135.200 người so với quý trước và tăng 357.500 người so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ t.uổi quý I/2022 là 3,01%, giảm 0,36 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,81 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động cũng tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động quý I/2022 là 6,4 triệu đồng, tăng 1 triệu đồng so với quý trước và tăng 110.000 đồng so với cùng kỳ năm trước.
“Sự quyết tâm của Chính phủ trong việc đẩy nhanh quá trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội trong quý I/2022 đã giúp một bộ phận người lao động sớm quay trở lại thị trường. Đây cũng là lý do, số người thất nghiệp trong độ t.uổi lao động trong quý I/2022 đã giảm 489.500 người so với quý trước”, đại diện Tổng cục Thống kê đ.ánh giá.
Mặc dù có nhiều khởi sắc so với quý trước và cùng kỳ năm trước, nhưng theo ông Phạm Hoài Nam – Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động (Tổng cục Thống kê), bức tranh lao động, việc làm trong quý I/2022 vẫn thiếu sự bền vững, do số lao động có việc làm tăng nhanh, nhưng chủ yếu ở khu vực phi chính thức.
Trong khi đó, lao động trong các ngành nông-lâm nghiệp và công nghiệp – xây dựng lại giảm so với quý trước.
Video đang HOT
Trong tổng số 50 triệu lao động có việc làm, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 38,7%, tương đương 19,4 triệu người, tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,5%, tương đương 16,8 triệu người. Lao động trong khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất, với 27,8%, tương đương 13,9 triệu người.
“So với quý trước và cùng kỳ năm trước, lao động trong khu vực nông-lâm nghiệp, thuỷ sản đều giảm lần lượt là 426.800 người và 192.200 người, lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng giảm 82.700 người”, ông Nguyễn Trung Tiến thông tin.
Doanh nghiệp lúc nào cũng khát lao động, đặc biệt lao động chất lượng cao
Để thị trường lao động – việc làm phát triển bền vững, đại diện Tổng cục Thống kê cho rằng, những tháng tới đây, Việt Nam vẫn cần tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp về cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, đẩy nhanh Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế.
Cùng với đó, Chính phủ cần triển khai các chính sách để thu hút lao động tự sản tự tiêu, lao động không tham gia hoạt động kinh tế tham gia thị trường lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống của người dân, đồng thời, nghiên cứu xây dựng các chương trình chính sách đào tạo phù hợp, nâng cao chất lượng nguồn lao động, đảm bảo năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Giải thích về việc tỷ lệ thất nghiệp còn cao nhưng doanh nghiệp vẫn thiếu nguồn lao động, Phó Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động Nguyễn Thị Thanh Mai cho hay, quý I năm nay, số ca mắc Covid-19 tăng rất cao, trong đó, số công chức và người lao động trong quý vừa rồi chiếm 48%. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình việc làm.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp lúc nào cũng khát lao động, đặc biệt là lao động chất lượng cao. Nhưng đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp tận dụng tuyển chọn lao động chất lượng cao, phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Về giải pháp hỗ trợ, bà Nguyễn Thị Thanh Mai đ.ánh giá, Chính phủ đã thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động thuê nhà theo Nghị quyết 43 của Quốc hội. Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ t.iền thuê nhà cho người lao động, đặc biệt cho những lao động làm việc khu công nghiệp, chế xuất… Đây là biện pháp hỗ trợ hữu ích cho doanh nghiệp, động viên hỗ trợ người lao động để tham gia lại thị trường lao động, duy trì sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, gần 2 năm, Chính phủ chưa điều chỉnh mức tăng lương tối thiểu, do đó, đề xuất tăng lương tối thiểu vùng sẽ là động lực giúp người lao động vượt qua khó khăn, tích cực đóng góp vào sự phát triển của doanh nghiệp.
Theo các chuyên gia, mức tăng lương tối thiểu vùng là nhu cầu chính đáng của người lao động, t.iền lương tối thiểu là mức sàn để doanh nghiệp căn cứ vào đó có cơ sở để áp dụng mức lương cho người lao động. Qua nghiên cứu mỗi lần tăng lương tối thiểu vùng, số doanh nghiệp áp dụng khoảng 90%.
Chính vì vậy, tăng lương tối thiểu vùng, theo Tổng Cục Thống kê, là cần thiết nhưng cần có lộ trình cụ thể, không tạo áp lực cho doanh nghiệp.
Cũng theo Tổng Cục Thống kê, thuế thu nhập cá nhân đã có hai lần điều chỉnh, gần đây nhất là năm 2020. Hiện, mức giảm trừ cho người nộp thuế là 11 triệu đồng, cho mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng. Mức giảm trừ này không còn phù hợp, có thể nghiên cứu giảm các bậc thuế và giảm mức thuế, tăng mức giảm trừ gia cảnh. Bộ Tài chính đang lấy ý kiến sửa theo từng nhóm.
Hỗ trợ doanh nghiệp chống khai thác, đ.ánh bắt bất hợp pháp
Cộng đồng doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hải sản đã tích cực hỗ trợ để công tác chống khai thác, đ.ánh bắt bất hợp pháp hiệu quả hơn.
Chống khai thác, đ.ánh bắt bất hợp pháp, không khai báo, không theo quy định vẫn còn là một hành trình dài của nghề cá và các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu hải sản Việt Nam. Để nguồn nguyên liệu hải sản được kiểm tra, truy xuất nguồn gốc rõ ràng khi nhập cảng, các Ban quản lý cảng cá càng phải nâng cao nghiệp vụ kiểm tra, xác nhận và có quyết định thông cảng. Chính vì điều này, cộng đồng doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hải sản đã tích cực hỗ trợ để công tác chống khai thác, đ.ánh bắt bất hợp pháp hiệu quả hơn.
Tàu cá của ngư dân tỉnh Phú Yên neo đậu tại cảng cá Đông Tác, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Ảnh minh họa: Phạm Cường/TTXVN
Chấm dứt tàu cá vi phạm
Theo thống kê của Tổng cục Thủy sản, 28 địa phương có biển đã nỗ lực chống khai thác bất hợp pháp và đạt được những kết quả khả quan. Cụ thể, số tàu cá có chiều dài từ 15m trở lên đã lắp đặt thiết bị VMS và có tín hiệu trên hệ thống giám sát hành trình tàu cá đạt 90,87%, tăng 0,61% so với 2 năm trước.
Đáng lưu ý, tình hình tàu cá Việt Nam bị nước ngoài bắt giữ, xử lý giảm đáng kể, từ đầu tháng 10/2021 đến nay chưa phát hiện vụ việc nào bị nước ngoài bắt giữ. Toàn bộ 28 địa phương ven biển đã tăng cường chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng liên quan thực hiện việc kiểm soát tàu cá ra vào cảng, lao động trên tàu cá, kiểm soát sản lượng thủy sản qua cảng, truy xuất nguồn gốc thủy sản từ khai thác đúng theo quy định.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Phó Chủ tịch Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), nếu còn một tàu cá nào vi phạm vùng biển nước ngoài, việc gỡ thẻ vàng của Ủy ban châu Âu là rất khó. Vì vậy, cộng đồng doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu hải sản cùng chính quyền địa phương các tỉnh có biển, cộng đồng ngư dân khai thác, đ.ánh bắt hải sản phải kiên quyết không để xảy ra trường hợp nào vi phạm đ.ánh bắt vùng biển nước ngoài.
Để có thể giúp ngư dân thuận lợi hơn trong thực hiện ghi chép nhật ký khai thác, hành trình cũng như thực hiện chống khai thác bất hợp pháp, cộng đồng doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hải sản mong muốn sớm có thiết bị ghi chép bằng điện tử để cho ngư dân có điều kiện tốt nhất khi ra khơi đ.ánh bắt.
Để vận hành tốt hoạt động thực hiện chống khai thác bất hợp pháp trong doanh nghiệp, hiện nay VASEP cũng đã có những chuyến đến hướng dẫn trực tiếp doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hải sản các tiêu chí phải thực hiện nghiêm khắc trong thu mua nguyên liệu hải sản.
Đồng thời, VASEP cũng phối hợp với các Sở Nông nghiệp, Chi cục thủy sản, Ban quản lý cảng cá tại những địa phương có biển để đẩy mạnh những thuận lợi, giải quyết những khó khăn trong việc kiểm tra tàu cá cập bến, xuất bến, ghi chép, đo lường sản lượng, loài hải sản cập bến cũng như xác nhận nguyên liệu được khai thác hợp pháp; tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn nguyên liệu tiêu thụ với giá cao, chất lượng cao, doanh nghiệp có đủ chứng từ công nhận xuất xứ, phục vụ cho chế biến, xuất khẩu.
Doanh nghiệp nỗ lực thực thi
Nguồn nguyên liệu khai thác hải sản hiện nay chủ yếu cung ứng cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Vì vậy, đơn vị tiêu thụ đóng vai trò rất quan trọng trong việc chống khai thác bất hợp pháp. Khi doanh nghiệp bất hợp tác với nguồn nguyên liệu hải sản không có xuất xứ rõ ràng, thiếu nhật kí hành trình và nhật ký khai thác có nghĩa là sản lượng khai thác, đ.ánh bắt đó khó có thể tiêu thụ, khiến cho chủ tàu và thuyền trưởng sẽ hòa vốn hoặc lỗ khi chỉ tiêu thụ tại thị trường nội địa với giá thấp.
Theo ông Lương Công Đồng, một ngư dân khai thác xa bờ tại phường Phú Đông, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, mỗi chuyến ra khơi tốn rất nhiều chi phí xăng, dầu, nhân công, ăn uống, đó là chưa kể đến những chi phí sử dụng máy nhắn tin và cả thiết bị giám sát hành trình.
Với tình hình giá xăng dầu tăng cao như hiện nay, mỗi chuyến biển có nhật ký khai thác, giám sát hành trình mới bán được giá cao, chuyến biển này mới có lãi.
Nếu như không thực thi đúng Luật Thủy sản 2017 và những yêu cầu chi tiết do Chi cục Thủy sản Phú Yên triển khai, toàn bộ sản lượng khai thác được sẽ không có "hộ chiếu" truy xuất nguồn gốc để lưu hành vào nhà máy của doanh nghiệp chế biến hải sản.
Như vậy, toàn bộ sản lượng tiêu thụ trôi nổi bên ngoài chỉ được mua với giá thấp, khó có lời. Mặc dù lắp thiết bị, thực hiện tin nhắn, qua hai hệ thống khai báo mất nhiều chi phí, nhưng cũng giúp ngư dân có được ít lợi nhuận.
Nói về hoạt động tích cực chống khai thác bất hợp pháp hiện nay, mục đích cuối cùng là vì một nghề cá nhân văn, bền vững, cũng là để gỡ thẻ vàng của Ủy ban châu Âu, đại diện Công ty cổ phần Bá Hải (Phú Yên) chia sẻ, chính quyền địa phương phải tăng hình thức xử phạt cao hơn, mạnh hơn nữa đối với những tàu cá vi phạm chống khai thác bất hợp pháp.
Bởi, khi có người vi phạm mà hình thức xử phạt chưa đủ "nặng", người vi phạm còn kinh phí hoạt động thì những người khác sẽ có thể làm theo, mọi hoạt động chống khai thác bất hợp pháp sẽ không hiệu quả. Khi xử phạt thật nặng, các tàu cá mới không dám vi phạm vùng biển nước ngoài nữa.
Ông Trần Đình Luân, Tổng Cục trưởng Tổng Cục thủy sản nhấn mạnh, nghề cá Việt Nam kiên quyết ngăn chặn, chấm dứt tình trạng vi phạm khai thác hải sản ở vùng biển nước ngoài; trong đó, tập trung thực hiện các giải pháp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tàu cá ra vào cảng theo đúng quy định pháp luật thủy sản, tăng cường tuần tra, kiểm tra, kiểm soát tại các vùng biển chồng lấn, tranh chấp, ranh giới vùng biển giữa Việt Nam và các nước. Giám sát chặt chẽ tàu cá hoạt động trên biển qua hệ thống giám sát tàu cá, trao đổi thông tin kịp thời giữa các lực lượng thực thi pháp luật để ngăn chặn, xử lý kịp thời tàu cá có dấu hiệu vi phạm.
Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế phối hợp liên ngành trong trao đổi, xử lý thông tin nhằm ngăn chặn, chấm dứt tàu cá vi phạm khai thác hải sản ở vùng biển nước ngoài nêu rõ, gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong thực hiện nhiệm vụ chống khai thác bất hợp pháp.
Đáng lưu ý nhất là ở cấp xã, phường về tuyên truyền, vận động người dân tuân thủ pháp luật, chính quyền địa phương thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao, kịp thời động viên, khen thưởng điển hình và xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân thiếu tinh thần, trách nhiệm để xảy ra sai phạm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ, công việc được giao về chống khai thác bất hợp pháp.
Đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói hỗ trợ nhà ở xã hội Nguồn cung nhà ở xã hội ít khiến gói tín dụng ưu đãi cho người mua nhà có nguy cơ bị "ế". Vì vậy, để tháo gỡ điểm nghẽn này cần đẩy nhanh tiến độ giải ngân các gói hỗ trợ. Nhà ở xã hội, nhà ở dành cho người thu nhập thấp chiếm đến 70 - 80% nhu cầu của người dân....