Lãng mạn hóa bệnh lao phổi, trào lưu điên rồ nhất trong lịch sử loài người
Thế nhưng có một giai đoạn trong lịch sử loài người, do sự hiểu biết hạn hẹp về y khoa lẫn trình độ dân trí, người ta tôn vinh căn bệnh lao phổi và biến nó trở thành chuẩn mực của cái đẹp.
Ai cũng mong muốn mình được khỏe mạnh và rõ ràng khi bị bệnh thì hoàn toàn chẳng có gì lãng mạn cả. Thế nhưng có một giai đoạn trong lịch sử loài người, do sự hiểu biết hạn hẹp về y khoa lẫn trình độ dân trí, người ta tôn vinh căn bệnh lao phổi và biến nó trở thành chuẩn mực của cái đẹp. Từ niềm tin sai lầm này, giới quý tộc Châu Âu đã tạo ra bao chuyện dở khóc dở cười còn nổi tiếng đến tận ngày nay.
Lãng mạn hóa bệnh lao ở cuối thế kỷ 19
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ phát triển cực thịnh của chủ nghĩa lãng mạn. Tầng lớp quý tộc Châu Âu gần như nhìn nhận mọi thứ trong cuộc sống qua lăng kính hồng, kể cả bệnh tật. Vì triệu chứng của bệnh lao bao gồm việc người bệnh gầy gò, xanh xao, môi đỏ và má ửng hồng do sốt liên tục, người ta đã gán ghép cho nó trở thành một chuẩn mực đẹp đẽ, đầy thi vị.
Thậm chí, trong một số tác phẩm thơ ca nổi tiếng, điển hình là tác phẩm của Much Ado About Nothing (tạm dịch: Có gì đâu mà rộn) của William Shakespeare sáng tác vào thế kỷ 16, đã xuất hiện cụm từ “a consumptive love” (tạm dịch: một tình yêu héo hon) để miêu tả về người đang bị bệnh lao. Từ một căn bệnh chết người vào thời đó, hiểu biết hạn hẹp cộng với óc sáng tạo của con người, lao được xem như căn bệnh tương tư tình ái.
Ngoài William Shakespeare, lao còn được nhắc đến trong cuốn “Anatomy of Melancholy” của Robert Burton thông qua câu chuyện về hoàng tử Antiochus. Antiochus yêu Stratonice – mẹ kế của chàng. Tuy nhiên vì đây là một mối tình không nên có, vì thế Antiochus đã kìm nén tất cả cảm xúc và mắc bệnh lao ái tình. Tất nhiên, các miêu tả cổ của người Hy Lạp đều chỉ ra những đặc điểm của căn bệnh “lao ái tình” này trùng khớp với triệu chứng bệnh lao phổi. Thậm chí, cho đến thời Charles II, thầy thuốc Gideo Harvey vẫn miêu tả trong cuốn sách của ông như sau: “khi các cô hầu đột nhiên xương hàm nhô ra và đôi mắt vô hồn, họ chắc chắn là đang yêu.”
Video đang HOT
Những niềm tin tai hại của con người trong thế kỷ 18
Nếu thế kỷ 19 xem bệnh lao đại diện cho cái đẹp thì vào thế kỷ 16, 17, 18, bệnh lao còn được ưa chuộng vì đức tin tôn giáo. Nhiều người cho rằng thời gian mắc bệnh cho đến khi phát bệnh và tử vong của lao khá chậm, nên đó sẽ là một sự ra đi nhẹ nhàng, sạch sẽ cũng như không vướng bận bất cứ điều gì. Người bị bệnh sẽ dư dả thời gian chuộc lại mọi lỗi lầm khi còn sống, chào tạm biệt người thân,… Do đó, có một bộ phận không ít người còn cầu mong được nhiễm bệnh.
Váy phồng ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ, bắt nguồn từ chuẩn mực đẹp kiểu “lao phổi”
Còn đối với phụ nữ, sự mảnh mai về hình thể được đề cao ở thời điểm này. Và vô tình sao, bệnh lao lại đem đến điều đó. Thậm chí, các miêu tả về chuẩn mực đẹp thời Victoria như “da trắng, môi đỏ, mắt sáng, má hồng” trên thực tế đều trùng khớp với biểu hiện của bệnh lao. Thế là người tin rằng bệnh lao đại diện cho sự mong manh và hấp dẫn ở người phụ nữ. Niềm tin sai lầm này khiến nhiều quý bà, quý cô ở tầng lớp thượng lưu thời Victoria tìm đến hàng loạt biện pháp làm đẹp cực đoan như bôi thạch tín để da dẻ trắng bệch, mặc corset và váy phồng để tạo cảm giác thân hình thanh mảnh… hậu quả là sức khỏe của phụ nữ ở thời kỳ này bị sa sút rất nhiều.
Corset bó eo cho thanh mảnh, cũng kinh dị không kém
Nếu ở phụ nữ, lao đại diện cho cái đẹp, thì lao ở nam giới lại trở thành dấu hiệu cho sự thông minh, sáng tạo. Tuy chẳng có cơ sở nào chứng minh điều này, song nhiều người mặc định các quý ông mắc bệnh lao sẽ trở nên thông minh, sáng tạo và mang tâm hồn thi ca hơn.
Các quý ông bị lao được xem là thông minh và sáng tạo
Tóm lại, đã có một thời gian con người chạy theo trào lưu lãng mạn hóa bệnh lao đến mức điên rồ, đồng nhất nó vở vẻ đẹp cũng như vị trí xã hội cao quý. Thế nhưng, thực tế đã chứng minh rằng bệnh lao là căn bệnh cực nguy hiểm, chứ chẳng hề đẹp đẽ như người ta đã nghĩ.
Kỹ thuật làm trắng răng thế kỷ 19
Người dân châu Âu cách đây 200 năm tự chế kem đánh răng, tẩy trắng bằng axit và khuyến khích đánh răng 5 lần một ngày.
Thuốc đánh răng thời kỳ này có dạng lỏng, dạng bột hoặc sử dụng xà phòng thực vật, được bán rộng rãi tại các hiệu thuốc địa phương. Một số có hương vị hoặc mùi thơm do trộn cùng tinh chất hoa hồng, bạc hà hoặc vani. Số khác được làm thủ công, chứa các thành phần như phấn, long não hoặc quinine (có trong thuốc trị sốt rét). Người ta tin rằng, hỗn hợp càng chứa nhiều chất bào mòn thì khả năng làm trắng răng càng cao.
Tranh vẽ The Dentist (Nha sĩ) của họa sĩ Gerrit Van Honthorst. Ảnh: Pinterest
Nhiều người thậm chí sử dụng than, nghiền thành bột nhão và bôi lên răng. Đây là phương pháp tương đối phổ biến ở thế kỷ 19. Cuốn sách Mackenzie's Five Thousand Receipts in All the Useful and Domestic Arts (5000 phương pháp hữu ích của Mackenzie) xuất bản năm 1860 của Colin Mackenzie có đề cập đến công thức chế kem đánh răng từ than và mật ong. Trong khoảng thời gian ngắn, loại kem thực sự giúp răng trắng và sáng hơn. Tuy nhiên về lâu dài, người dùng bị viêm lợi và bệnh nha chu.
Một lựa chọn khác để có hàng răng đẹp là tẩy trắng bằng axit oxalic. Phương pháp được sử dụng lần đầu vào năm 1830. Axit oxalic là hóa chất có trong một số chất tẩy rửa gia đình, được dùng để phục chế đồ gỗ. Dạng bay hơi của hợp chất này còn có trong thuốc trừ sâu. Axit oxalic đôi khi được thay thế bằng dung dịch axit nitric loãng, clorua có trong natri cacbonat, thậm chí xyanua kali (chất độc không màu gây chết người trong vòng vài giờ chỉ với liều lượng nhỏ).
Các phương pháp tẩy trắng gây tổn thương khá lớn cho răng cũng như mô xung quanh và chỉ được thực hiện bởi các nha sĩ có chuyên môn.
Trong cuốn sách A Popular Treatise on the Teeth (Một câu chuyện phổ biến về răng) xuất bản năm 1848, bác sĩ nha khoa Mayo Smith đề cập đến câu chuyện về hai nha sĩ tự do, đi qua nhiều thị trấn để bán công thức làm trắng răng của mình. Họ bôi lên răng dân làng một loại dung dịch làm sáng tức thì với mức giá phải chăng. Nhiều người sử dụng liệu pháp này tin rằng răng mình đã được làm sạch toàn diện.
Tuy nhiên, chỉ sau vài ngày, răng họ chuyển thành màu đen, trở nên nhạy cảm bởi men răng bị ăn mòn và bắt buộc phải nhổ bỏ. Sau khi phân tích, các chuyên gia phát hiện dung dịch hai nha sĩ sử dụng là axit sunfuric loãng, một trong những chất độc hại nhất khi tiếp xúc với răng.
Đến năm 1873, giới báo chí ủng hộ việc đánh răng thường xuyên và đúng cách. Cuốn sách The Teeth and How to Save Them (Cách giữ gìn răng miệng) thậm chí khuyên người đọc đánh răng 5 lần một ngày, vào buổi sáng thức dậy, tối trước khi đi ngủ và sau 3 bữa ăn.
Thục Linh
Theo Mimimatthews/VNE
Ấn Độ, Trung Quốc có nhiều người chết vì ô nhiễm không khí nhất thế giới Ấn Độ đứng đầu thế giới về số người chết do ô nhiễm môi trường, theo ngay sau là Trung Quốc và Nigeria. Liên minh toàn cầu về sức khỏe và ô nhiễm (GAHP) hôm 18/12 công báo báo cáo ước tính tác động toàn cầu của các chất gây ô nhiễm đối với không khí, nước và nơi làm việc. Tài liệu...