Làng điểm chỉ ở Thái Bình
Không chữ, không đất, không vốn… Còn đó hàng trăm con người vẫn lấy thuyền làm nhà, lấy sông làm chợ, lấy ngón tay thay bút… Tương lai họ sẽ về đâu?
Làng hoa văn – làng điểm chỉ
Nằm rải rác từ ven sông xã Hồng Tiến (huyện Kiến Xương, Thái Bình) kéo dài tới cửa biển Cồn Vành (huyện Tiền Hải, Thái Bình), làng chài Cao Bình còn được gọi là làng hoa văn – làng điểm chỉ bởi khoảng 70 % người dân ở đây mù chữ.
Cái tên làng hoa văn xuất phát từ việc người dân nơi đây chỉ biết điểm chỉ vào các văn bản hành chính như: Giấy đăng ký kết hôn, thủ tục vay vốn ngân hàng, sổ hộ khẩu… Cho đến thời điểm này, mặc dù số người biết chữ đã tăng lên nhưng nhiều người trong số họ vẫn có thói quen sử dụng phương pháp điểm chỉ thay cho chữ ký.
Tìm đến Cồn Vành, nơi đa số thuyền chài của Cao Bình tập trung về sau khi đi biển. Mặc dù kinh tế ở mức trung bình, nhưng với nhiều người dân xóm Cao Bình, việc cho những đứa con nhỏ theo con chữ cũng giống như kiếp mưu sinh theo con nước đầy vơi.
Ngay từ khi sinh ra, trẻ em xóm chài đã phải sống cảnh thuyền nhà, sông chợ.
Xuống thuyền của gia đình anh Trần Quang Sơn và chị Bùi Thị Yến, thứ tài sản đáng giá nhất là đống lờ (tên một loại lưới đánh tôm, cá nhỏ). Ngồi giữa đống lờ khâu lại những vết thủng, giọng chị Yến buồn buồn: “Cưới nhau được 15 năm, có 3 con trai, nhưng cố gắng lắm cũng chỉ cho 2 đứa nhỏ đi học, còn con trai lớn phải đi biển phụ bố mẹ”. Rít hơi thuốc lào dài, anh Sơn chen ngang câu nói của vợ: “Kinh tế thì vẫn đủ cho con đi học nhưng chắc cũng phải tính toán lại thôi. Cho con nó học biết chữ là đủ rồi!”. Anh Sơn cho biết thêm, do không có nhà trên đất liền nên hai con nhỏ anh phải gửi nhà họ hàng ở xóm Cao Bình để ngày ngày theo trẻ con cùng xóm tới trường đi học của xã cách 5km. Dưới sông, đứa con trai lớn hơn 10 tuổi của anh chị vẫn hồn nhiên vui đùa cùng đám bạn cùng xóm mà không để ý đến nỗi niềm của bố mẹ.
Cách đó vài thuyền, Phạm Văn Kiên và Trần Thị Dinh có lẽ là gia đình trẻ nhất khi mới chưa đầy 20 tuổi đã có 2 mặt con. Giống như những người phụ nữ khác của làng chài, công việc của Dinh là ngồi vá lưới những khi nghỉ đi biển. Khi được hỏi về tương lai, như đã hằn sâu trong đầu nên chị Dinh nói như đọc thuộc lòng: “Em muốn lên bờ lắm rồi! Từ bé lớn lên trên sông nước, nhưng từ ngày sinh con, em thường xuyên bị say sóng. Thời gian gần đây, những lần ra biển em chỉ nằm ôm con cho chồng rảnh tay đánh cá chứ không giúp được gì”. Có lẽ đang phải chịu áp lực công việc và hoàn cảnh gia đình nên chồng Dinh gắt: “Lên bờ thì ở đâu? Mà biết làm gì để sống? Từ bé chỉ biết bơi và bắt cá chứ có biết làm gì đâu?”. Một câu nói đầy bế tắc của người thanh niên chưa đầy 20 tuổi có hai mặt con.
Tam đại đồng thuyền
Khác với những thuyền ở cửa biển Cồn Vành, nằm một góc sông nhỏ của xã Lam Phú (huyện Tiền Hải, Thái Bình) có một nhóm thuyền của làng chài Cao Bình. Với những gia đình đang sống theo mô hình “Tam đại đồng thuyền” thì họ thường chọn một góc sâu vào đất liền để tập kết. Đại gia đình ông Phạm Văn Cầm là một ví dụ điển hình.
Năm nay 70 tuổi, ông Cầm có 9 người con. Sinh ra trên sông nước, đến giờ, tất cả những gì ông làm được là cho 5 đứa con trai 5 chiếc thuyền để mưu sinh, những người con cũng theo nghiệp ông bà, hằng ngày lênh đênh sông nước kiếm sống và chưa một lần được cầm bút, nắn nót theo con chữ.
Tờ đăng ký kết hôn được điểm chỉ của vợ chồng Phạm Văn Năm và Trần Thị Dung
Rất vui vẻ, ông nói: “Làm nghề này cũng nhọc lắm. Ngày trước còn chèo thuyền, cứ khô mái chèo là lại hết đồ ăn. Nhưng bây giờ thì khác. Thuyền chạy bằng dầu, mỗi lần ra khơi, chi phí tối thiểu cho một thuyền khoảng 300.000 đồng, trong khi kết quả thu về chỉ đủ chi phí và ăn uống nên cũng không có điều kiện cho con cháu đi học”.
Video đang HOT
Về khó khăn trong công việc, ông Cầm cũng cho biết thêm, với các thuyền lớn, được trang bị hòm đông lạnh, người ta đi một chuyến hàng tháng, được bao nhiêu cá thì bảo quản trong hòm nên về vẫn bán được. Còn với người dân làng chài, cứ bắt được mẻ cá nào là phải vòng vào bờ bán luôn, mà mỗi lần vòng đi vòng về tốn càng thêm tốn, nghèo lại càng nghèo thêm.
Nhìn bà Cầm thoăn thoắn nhảy từ thuyền nọ sang thuyền kia để về lấy tập giấy tờ của gia đình cho chúng tôi xem, không ai nghĩ là bà đã gần 70 tuổi. Giở gói nylon cũ được gấp qua loa đựng toàn bộ giấy tờ “sinh mạng” của đại gia đình, chúng tôi nhìn thấy tờ giấy đăng ký kết hôn của cậu con trai thứ 6 bên chồng là điểm chỉ còn bên vợ là chữ ký có viết đầy đủ họ tên. Nhưng ở sổ vay vốn ngân hàng thì người vợ lại điểm chỉ. Khi được hỏi thì cô gái Trần Thị Dung (23 tuổi) tủm tỉm: “Em có biết ít chữ nhưng bây giờ tìm bút để ký mất thời gian lắm, cứ chấm tay điểm chỉ cho nhanh!”. Nụ cười an phận của một người vợ trẻ.
Ngoài đại gia đình ông Cầm thì vẫn còn rất nhiều đại gia đình khác cũng đang phải sinh sống trong hoàn cảnh tương tự.
Làm gì trên bờ?
Do cả điều kiện khách quan lẫn chủ quan, cuộc di dân của Cao Bình từ thuyền lên đất liền còn lắm trở ngại và gian nan. Trao đổi với chúng tôi, Bí thư xã Hồng Tiến (huyện Kiến Xương) Trần Văn Luyến nói: “Cao Bình hiện có 171 hộ với gần 800 nhân khẩu, dù hết sức cố gắng nhưng chính quyền địa phương mới chỉ cấp được đất cho 80 hộ để lên bờ xây nhà. Hơn nữa, chính bản thân người dân làng chài cũng rất hoang mang về sinh kế khi lên bờ nên chúng tôi vẫn chưa vận động triệt để được!”.
Cán bộ địa phương đang hướng dẫn ông bà Cầm các thủ tục hành chính
Trưởng thôn Nguyễn Văn Thiệu cho biết, trong số 80 hộ được cấp đất nhưng không phải ai cũng đủ tiền để xây nhà, hơn nữa, có những hộ xây được nhà xong thì lại bỏ không, quay lại thuyền sinh sống vì ở trên bờ họ cũng chẳng biết làm gì. “Muốn lên bờ lắm, nhưng cũng chưa biết làm gì để sống! Nếu có học được nghề đan lưới thì dưới thuyền chồng lại đi biển một mình!”- chị Bùi Thị Yến phân vân.
Ngay đối với những hộ đã được cấp đất để lên bờ cũng đang gặp khó trong việc xóa mù chữ cho con cái. Trường học duy nhất của xã Hồng Tiến cách xóm Cao Bình khoảng 5km đường đê. Thế nên khi bố mẹ đi biển các bé phải tự đi bộ từ nhà đến trường. Những ngày nước lớn, người trong thôn thường đưa các cháu lên thuyền và chở đến gần trường để rút ngắn quãng đường đi bộ. Nhưng những ngày nước kiệt thì các cháu rất ngại đi.
“Thôn đã đề xuất xin một giáo viên về dạy tại thôn Cao Bình nhưng vẫn chưa được duyệt. Còn Đồn biên phòng Cồn Vành thì cho mượn phòng và tổ chức cán bộ dạy ngay tại nơi tập kết thuyền nhưng cũng không được mấy người theo học”- anh Thiệu cho biết thêm.
Họ vẫn thế, ngày qua ngày lênh đênh trên sông nước. Mong ước lên bờ rồi vẫn phải quay về cuộc sống “Đi cá, về đồ”. Cố gắng cho con cái đi học xóa mù chữ rồi lại phải quay về đi biển phụ gia đình… Tương lai của Làng hoa văn sẽ tươi đẹp như cái tên hoa văn hay mãi luẩn quẩn vẫn chỉ là Làng điểm chỉ?
Trưởng thôn Nguyễn Văn Thiệu khái quát cho chúng tôi nghe về những nguy cơ người dân Cao Bình thường gặp:
- Phụ nữ phải sinh con khi thuyền đang ngoài biển, người mẹ và đứa bé phải chịu tiếng máy nổ, mùi dầu tối thiểu phải gần 1 ngày trên biển.
- Do thường xuyên say sóng nên phụ nữ thần kinh yếu sẽ mắc bệnh rối loạn tuần hoàn não.
- Lênh đênh trên biển nên các thuyền cứ gặp nhau là đàn ông lại mang rượu ra uống, hiện nay trên các thuyền, rượu nhiều hơn gạo.
- Việc phải phụ thuộc vào mức nước để thả lưới nên người đi biển thường bị loạn đồng hồ sinh học.
Theo Xuân Phú (Tiền Phong)
Những phận đời éo le ở làng lặn thuê
Việc lặn dưới độ sâu mấy chục mét nhưng phương tiện bảo hộ lặn lại thô sơ đã khiến nhiều người chết chìm dưới biển, nhiều người thì biến thành ngẩn ngơ...
Vì mưu sinh, nhiều thợ lặn không trường lớp ở Ninh Vân phải sống cuộc đời thực vật sau những chuyến lặn sâu tới 50m
Nhiều người đến làng lặn biển Ninh Vân (xã Ninh Vân, Ninh Hòa, Khánh Hòa) thường thích thú khi mua được nhiều đồ lưu niệm quý. Ở đây có đến 300 người cả nam lẫn nữ (chủ yếu là nam) mưu sinh bằng nghề lặn biển để tìm kiếm san hô và bắt các loại hải sản quý.
Việc lặn dưới độ sâu mấy chục mét nhưng phương tiện bảo hộ lặn lại thô sơ đã khiến nhiều người chết chìm dưới biển, nhiều người thì biến thành ngẩn ngơ bởi áp suất nước tác động vào não... Tất cả như một nỗi ám ảnh.
Phập phồng mạng sống nơi biển sâu
Chẳng có phương tiện bảo hộ gì nhưng ở làng lặn Ninh Vân, rất nhiều người có thể lặn xuống độ sâu trên 50m. Vừa gặp chúng tôi, ông Bùi Toàn - người đã vài lần thoát chết từ việc lặn biển - than vãn: "Cũng vì cái nghèo nên phải đánh cược mạng sống.
Năm năm trước, có mấy đại gia Sài Gòn về thuê tôi lặn sâu 60m để mò san hô hóa thạch, biết là nguy hiểm nhưng vì tiền nên tôi vẫn làm. Sau mấy ngày lặn đó, ngực tôi đau cả tháng, có lần thổ huyết do áp suất nước khi lặn sâu. Tuy Ninh Vân nhờ nghề lặn mà thay da đổi thịt nhưng những nỗi đau do biển cả ai thấu được!".
Mùa lặn biển thường diễn ra từ tháng 3 đến hết tháng 8, việc lặn sâu với người Ninh Vân dễ như... đi chơi, họ thực sự là những người hiểu rõ đáy biển và những quy luật của đại dương. Mỗi chuyến đi lặn biển thu được gần 1 tấn/tàu hải sản. Đời sống người dân Ninh Vân vì thế được cải thiện.
Khi lặn xuống biển sâu, họ dùng súng phóng lao để bắt cá. Khi bắn cá, phải bắn trúng phần đầu và phần ức của cá, nếu bắn vào thân cá thì giá trị cá chỉ còn bằng 1/3. Vì vậy, theo kinh nghiệm dân lặn biển thì nên nương theo dòng hải lưu, rồi bắn chặn trước đầu cá. Ngoài ra, khu vực Trường Sa, mùa nào cũng có cá nhám mập cực quý. Đặc biệt, nhiều ngư dân dù chỉ có duy nhất cây súng phóng lao vẫn tìm ra Trường Sa để săn cá mập.
Ở độ sâu 50 mét, nếu thợ lặn không có kinh nghiệm thì không thể nổi lên được. Nhớ lại chuyến lặn biển cách đây mấy năm, lão ngư Nguyễn Huy Toàn thảng thốt: "Lần đó, dù không được trang bị dụng cụ lặn hiện đại nhưng tôi ham cá nên vẫn lặn, áp suất khiến cho tôi ngạt thở, may nhờ có bạn lặn kéo lên và cấp cứu 2 ngày mới qua khỏi. Với người dân làng lặn Ninh Vân, mưu sinh ở đáy biển như đánh cược với mạng sống của mình".
Theo các thợ lặn ở Ninh Vân, khâu chuẩn bị là cực kỳ quan trọng. Áp lực nước là điều đáng sợ nhất khi ở dưới đáy biển. Ông Nguyễn Văn Quân, một thợ giỏi của làng cho biết: "Không hiểu biết lại trang bị thô sơ, người Ninh Vân hay gặp rủi ro. Vì thế, tôi rất muốn liên kết với một tổ chức nghiên cứu cách lặn có khoa học cho những người dân nơi đây".
Những kinh nghiệm không trường lớp
Sau những ngày dài đánh cược mạng sống của mình nơi biển sâu, các thợ lặn ở Ninh Vân đúc kết ra một số kinh nghiệm: Điều kiện để lặn sâu nhất quyết phải có thiết bị riêng và dầu y tế có thể ăn được. Loại dầu này có thể giúp cơ thể chống chọi áp suất của nước. Nếu máy nén khí chạy bằng dầu diesel thì phải có than hoạt tính để lọc chất độc, chất dầu, bình quân 13kg than/cm3, nếu không sẽ dẫn đến việc người lặn bị nám phổi, mắc bệnh nghiêm trọng về hô hấp.
Những thiết bị này được người trong làng đặt chế tạo riêng ở TP.HCM. Theo kinh nghiệm của những người thợ lặn thì ở độ sâu trên 70 mét sẽ ít còn san hô sinh sống, chủ yếu là những loại cá lạ. Dưới các rạn san hô thường có nhiều loại thủy sản: mú, mó, bò chìa, búp nẻ, tôm hùm, mực, hải sâm... Những thủy sản này không nhất thiết lặn sâu để bắt, nhưng nếu muốn bắt những con to, nặng, chất lượng cao thì dưới độ sâu từ 30-50 mét mới có.
Khác với huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), Ninh Vân có số lượng người lặn biển tuy ít hơn nhưng quy mô hoạt động lại vượt xa. Những ngư dân tại Ninh Vân có người từng làm thuê cho các tổ chức lặn biển quốc tế, lặn thuê cho các công ty lặn biển nước ngoài. Nhiều người thường xuyên lặn ở những vùng biển quốc tế, như Philippines hay Indonesia. Chính vì những kinh nghiệm quý tự học được mà thời gian gần đây Tổ chức Liên hiêp Pháp ngữ và phát triên biên đảo thường xuyên lựa chọn Ninh Vân làm nơi tổ chức việc huấn luyện và chuyển giao công nghệ lặn biển cho ngư dân nhằm tránh những tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Anh Nguyễn Văn Quân kể về các tai nạn trong quá trình lặn cũng như niềm hy vọng mới về phương pháp bão hòa khí ni-tơ
Thu nhập khủng và những cuộc đời thực vật
Nghề lặn biển có thu nhập cao vì trọng lượng thủy sản thu về ít nhưng đều là cá lớn, cá quý, tuy nhiên nguy hiểm cũng cao hơn. Ông Nguyễn Văn Sơn, một thợ lặn trong vùng, cho biết: "Mỗi giờ lặn tôi có thể thu về từ 700-800 ngàn đồng tiền thù lao, vì biển sâu ít người dám xuống, mình xuống sâu thì có tiền, nhưng nguy hiểm cũng cao hơn vô vàn lần".
Theo kinh nghiệm lâu năm của người dân đi biển, thì người bình thường chỉ cần lặn dưới 50m là đã nguy hiểm đến tính mạng. Theo lời ông Nguyễn Văn Chiến, một thợ lặn giỏi: "Nhiều năm đi biển tôi vẫn thường xuyên chứng kiến nhiều người chết vì lặn biển. Sự thay đổi áp suất - do lặn không đúng kỹ thuật, lại vội vàng nổi lên mặt nước - đã giết chết không ít người, một số người khác thì bại liệt".
Gần 10 năm nay, ông Nguyễn Văn Nam chỉ nằm một chỗ, tay chân không thể cử động. Ông buồn bã tâm sự: "Cũng vì ham tiền, làm liều lặn xuống sâu 60m, nên sau hai năm đi lặn thuê, tôi bị bại liệt chân tay. Các bác sĩ bảo không thể chữa được vì tác động áp suất mạnh quá, dầu diesel từ bình khí nén sục vào miệng mỗi khi có sự cố nên phổi cũng bị nám đen rồi".
Ông Trần Văn Tích cũng có số phận bi đát. Bị áp suất nước làm cho bại não, lại hít phải nhiều dầu diesel nên mấy năm nay ông sinh ra ngẩn ngơ. Vợ ông, bà Trần Thị Lụa giãi bày: "Mấy lần ông ấy đi lặn về nôn cả ra máu nhưng cản ông ấy không nghe. Sau chuyến lặn kia về, thấy ông không cử động được nữa mà chỉ nằm thở khó khăn thì gia đình biết không còn cứu vãn được rồi, đành sống thêm được ngày nào hay ngày đó vậy".
Vài năm trở lại đây, Ninh Vân ít trường hợp bị tai biến hay bại liệt nhưng vẫn còn rất nhiều người bị chảy máu mũi, máu mắt, đau nhức cơ bắp, vùng lõm sâu trên cơ thể... Ông Nguyễn Văn Hướng - Phó chủ tịch xã Ninh Vân - cho biết: "Làng lặn biển cũng như nhiều hộ dân khác trong xã này sống nhờ vào nghề lặn. Lặn biển không chỉ để săn cá mà còn để tìm rong biển, san hô đỏ. Công việc nguy hại nhiều đến sức khỏe nhưng xã không cấm được".
Cứu cánh trong muộn màng
Sau hàng loạt tai nạn xảy ra với các thợ lặn ở Ninh Vân và một số làng chài ở Khánh Hòa, đầu năm 2013, Liên hiêp Pháp ngữ và phát triên biên đảo quốc tế đã triển khai đề án: "Bão hòa khí ni-tơ bằng oxy ở đô sâu 9m". Đề án này trở thành bảo bôi cho các ngư dân lặn biên. Nội dung cốt lõi của đề án là trang bị cho người lặn kiến thức để có thê câp cứu và điêu trị được các ca tai biên bằng cách ôm chính người bị tai biến, lặn xuông đô sâu từ 6 - 9m. Tùy vào triêu chứng tai biên, mà có thời gian bão hòa khác nhau.
Nêu bị tê rần toàn thân, tức là nếu không cứu sớm sẽ bại liệt, thì nạn nhân phải ở độ sâu 9m một tiêng để thở oxy. Nêu lặn tôt, có thê chỉ cân vài hơi là lên được mặt nước bình thường. Anh Nguyên Văn Quân, ngư dân lặn biên giỏi nhât ở Ninh Vân, tham dự đề án, cho biêt: "Phương pháp bão hòa khí ni-tơ bằng oxy ở đô sâu 9m quả là đơn giản, nhưng cũng cân huân luyên kỹ càng.
Với phương pháp này, chỉ cân một bình oxy là có thê tránh được tai biên mạch máu não hoặc bại liêt. Sau khi học phương pháp này, tôi đã đem truyên đạt cho rất nhiều bạn bè". Cũng theo anh Quân có 2 ca ngư dân sau khi lặn biển nổi lên mặt nước thì bị tai biến, tim ngừng đập áp dụng phương pháp này, hai người đó đã "cải tử hoàn sinh". Một trong những nguyên nhân chính của việc tai biến và thiệt mạng khi lặn biển sâu là do khí ni-tơ đọng lại trong các mạch máu não và yếu tố nước độc nguyên thủy ở các vùng biển sâu.
Được biết, chỉ trong năm 2012, tính riêng Bệnh viện Y học cổ truyền và phục hồi chức năng Khánh Hòa đã phải điều trị cho 36 ngư dân bại liệt do lặn biển, trong đó có rất nhiều ngư dân là người Ninh Vân. Nếu đề án: "Bão hòa khí ni-tơ bằng oxy ở độ sâu 9m" được triển khai thành công và rộng rãi, nó sẽ cứu nhiều ngư dân thoát khỏi cảnh bại liệt, thiệt mạng khi lặn biển, nhất là tại Ninh Vân và Lý Sơn.
Theo Xahoi
Những người đàn bà đạp sóng vươn khơi "Đàn ông, con trai làm được, há gì mình thua. Phụ nữ đi biển có cái mạnh riêng đấy. Một khi vượt sóng, ít ai bỏ được", nữ ngư phủ Đỗ Thị Xu (xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi) trần tình bên tả ngạn dòng Phú Thọ hướng ra biển cả. Không ít phụ nữ Quảng Ngãi, Đà Nẵng, và các...