Làm sao kiểm soát được bệnh viêm gan B?
Có khoảng 25 – 45% người mắc bệnh viêm gan B mạn tính có nguy cơ tử vong sớm. Để đảm bảo đạt kết quả điều trị tốt, việc phát hiện sớm và theo dõi quá trình điều trị là rất quan trọng.
Viêm gan B là một bệnh khá phổ biến và đặt ra nhiều quan ngại cho người dân Việt Nam bởi đây là căn bệnh dễ lây và có nguy cơ gây biến chứng cao ở gan. Nếu cơ thể không thể loại bỏ vi-rút viêm gan B sau 6 tháng kể từ khi bị nhiễm thì bệnh sẽ chuyển sang mạn tính, và nếu không được điều trị có thể dẫn tới xơ gan (không hồi phục được) và làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư gan. Vấn đề hàng đầu đặt ra cho các bác sĩ điều trị và ngành Y tế là làm sao để quản lý căn bệnh này hiệu quả.
Khả năng lây nhiễm vi-rút viêm gan B cao hơn vi-rút HIV
Vi-rút viêm gan B có khả năng lây nhiễm cao gấp 50-100 lần so với vi-rút HIV. Nếu không được điều trị kịp thời, viêm gan B có thể dẫn đến xơ gan và ung thư gan.
Gần 1/3 dân số thế giới từng bị nhiễm vi-rút viêm gan B (HBV) và khoảng 350 triệu người (5%) hiện đang bị viêm gan B mạn tính. Tại Việt Nam, việc lây nhiễm viêm gan B là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh gan mạn tính với tỷ lệ cao, đã được dự đoán tăng từ 6.4 triệu trường hợp vào năm 1990 lên 8.4 triệu trường hợp ở năm 2005 nếu không tiêm phòng, con số này dự kiến sẽ tiếp tục tăng đến hơn 10 triệu vào năm 2025.
Video đang HOT
Ước tính khoảng 20% dân số Việt Nam bị nhiễm vi-rút viêm gan B. Trong số đó, có từ 4 – 5 triệu người bị xơ gan hoặc ung thư gan, và từ 25 – 45% người mắc bệnh viêm gan B mạn tính có nguy cơ tử vong sớm. Để đảm bảo đạt kết quả điều trị tốt, việc phát hiện sớm và theo dõi quá trình điều trị là rất quan trọng.
Có thể cá nhân hóa điều trị và xử trí bệnh?
GS.BS. Phạm Hoàng Phiệt, Chủ tịch Hội Gan Mật TPHCM cho biết: “Xét nghiệm đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong việc kiểm soát bệnh viêm gan vi-rút B, từ chẩn đoán sớm đến xử trí và theo dõi trong quá trình điều trị. Thông thường, có khoảng 80% người bệnh sẽ không nhận ra bất kỳ triệu chứng đặc biệt nào cho đến khi gan bị tổn thương nghiêm trọng vì vậy, đa số bệnh nhân thường được chẩn đoán và chữa trị vào giai đoạn muộn (nhiều người trong số họ thậm chí còn không biết bản thân mình đã bị nhiễm bệnh hay thường bỏ qua những biểu hiện ban đầu của bệnh) điều đó có thể khiến bệnh tiến triển nhanh hơn, khó điều trị và tỷ lệ tử vong cao. Hậu quả là, ảnh hưởng tới việc điều trị khó khăn, tốn kém và hiệu quả thấp! Đây là một trong những bất cập lớn tại Việt Nam, quốc gia có khoảng 15 đến 20% dân số bị nhiễm vi-rút viêm gan B”.
Ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy đối với bệnh nhân viêm gan B mạn tính, nồng độ HBsAg tương quan gián tiếp với sự kiểm soát lây nhiễm – mức HBsAg càng thấp thì sự kiểm soát lây nhiễm càng cao.
Tuy nhiên, phương pháp chẩn đoán bệnh viêm gan B chủ yếu là thông qua xét nghiệm máu và việc đi xét nghiệm máu thường xuyên tại bệnh viện, nhất là đối với bệnh nhân ở xa, không phải là một việc dễ dàng.
Trong khi đó, xét nghiệm chính là chỉ số đo lường số lượng kháng nguyên bề mặt của vi-rút viêm gan B (HBsAg) giúp đánh giá mức độ kiểm soát miễn dịch của cơ thể đối với vi-rút, qua đó xác định liệu bệnh nhân có đáp ứng với điều trị hay không. Xét nghiệm này có ý nghĩa quan trọng trong công tác theo dõi điều trị của các bác sĩ, giúp họ đánh giá được tình trạng kiểm soát miễn dịch của bệnh nhân, nguy cơ tiến triển từ viêm gan B sang bệnh xơ gan và ung thư gan và từ đó thay đổi cách thức xử trí phù hợp đối với bệnh nhân.
Do đó, một xét nghiệm máu tại nhà như xét nghiệm Roche Elecsys® HBsAg II định lượng, sẽ giúp định lượng kháng nguyên bề mặt vi-rút sẽ giúp cá nhân hóa việc xử trí và điều trị đối với các bệnh nhân viêm gan B mạn tính.
Ngoài việc theo dõi đáp ứng điều trị, định lượng HBsAg kết hợp với định lượng HBV DNA có thể được sử dụng để phân biệt những người mang vi-rút không hoạt động với những người bệnh đang tiến triển, qua đó xác định rõ hơn những ai cần điều trị và theo dõi thường xuyên với những người không cần điều trị. Hơn thế nữa, khi kết hợp mức nồng độ HBV DNA, nồng độ HBsAg có thể giúp các bác sĩ dự đoán tốt hơn khả năng tiến triển của bệnh viêm gan B mạn tính thành ung thư gan, và thực sự tạo ra cuộc cách mạng trong việc cá nhân hóa điều trị đối với viêm gan B mạn tính trong y học hiện đại.
Anh Tuấn
Theo dân trí
Uống thuốc giải rượu không hề giảm nguy cơ mắc bệnh gan
Nhưng công bô khoa hoc mơi đây cho thây, cư 100 ngươi uông va nghiên rươu thi co khoang 90% ngươi bi bênh gan.
Thông tin nay rât đang đê nhưng ngươi "uông rươu thay cơm" phai giât minh.
Nghiên cưu con chi ra răng, trong sô 90% ngươi bi bênh gan do rươu thi co khoang 30% bi viêm gan, 10% xơ gan va ung thư gan, con lai 50% la bi gan nhiêm mơ.
Trong 4 bênh nay, gan nhiêm mơ la thê bênh nhe nhât. Ngươi bênh không co môt thay đôi đang kê vê thê trang bên ngoai. Cac triêu chưng hâu như cung như chưa co biêu hiên ro net. Chi co 2 điêu dê thây nhât la thê lưc bi suy giam va hinh anh nhiêm mơ tai gan ro net trên siêu âm.
Viêm gan la bươc tiêp theo, luc nay ngươi bênh co nhưng biêu hiên đăc trưng va giam chưc năng gan điên hinh. Vi du như vang da, vang măt, yêu moi cơ, rôi loan tiêu hoa...Va đăc biêt, đinh lương nông đô cac men gan chi điêm tăng vot trong mau. Viêc điêu tri luc nay đa la châm nhưng gan vân co thê phuc hôi.
Năng nhât la ung thư gan va xơ gan do rươu. Biêu hiên cua xơ gan va ung thư gan do rươu không co gi khac so vơi xơ gan va ung thư gan thông thương. Điêu khac biêt la bênh nhân co biêu hiên loan thân do uông rươu qua nhiêu. Chân tay run lây bây, bung to chương, đây dich cô trương bên trong, nôi mach mau ngoăn ngeo ơ da bung, da ngưc...
Cach tri bênh gan do rươu không kho nhưng phai quyêt tâm giam uông rươu dân dân va tiên tơi ngưng hăn. Uông nhiêu nươc sau uông rươu. Nhơ ăn cơm, chao hay chât bôt đương sau khi ngô đôc rươu. Dung nươc đương chanh nong đê giai rươu. Đăc biêt gân đây co ban nhiêu loai thưc phâm chưc năng quang cao la giai rươu, nhưng ngươi nghiên rươu đưng y lai vao lai thuôc đo ma uông rươu vô đô, vi thuôc giai rươu không lam giam nguy cơ măc bênh gan do rươu.
Theo Gia Đình & Xã Hội
Viêm gan C dễ mắc... khó chữa Tại một hội nghị khoa học về viêm gan vừa được tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh, GS-BS Phạm Hoàng Phiệt - Chủ tịch Hội Gan - Mật TP.Hồ Chí Minh - cho biết số người mắc viêm gan C ở Việt Nam đã tăng lên 4,5 triệu người. Theo đó, năm 2004 tần suất nhiễm bệnh ở Việt Nam là 2% dân...