“Làm phim bây giờ, càng giả dối, càng nhiều tiền”
“Tôi thấy phim truyền hình Việt Nam bây giờ giả dối kinh khủng. Phim nào cũng tràn ngập biệt thự, xe sang rồi nhà hàng, quán bar… trong khi, 80% dân số chúng ta là nông dân nghèo khổ,” đạo diễn của Thung lũng hoang vắng, Nhuệ Giang chia sẻ.
“Phim phải là cái nhìn của đạo diễn trước một vấn đề mang tính xã hội”
Sau Thung lũng hoang vắng, phải mất đến 10 năm im lặng, đạo diễn Phạm Nhuệ Giang mới trở lại với điện ảnh. Lần này, chị mang theo Tâm hồn mẹ. Những câu chuyện về tình mẫu tử luôn khiến khán giả xúc động. Chị có ý định “lấy nước mắt” để đưa khán giả đến rạp xem Tâm hồn mẹ?
Không. Mặc dù sau khi chiếu cho các đồng nghiệp và hội đồng duyệt xem, đã có nhiều ý kiến nói rằng, phim xem rất cảm động. Phim của tôi chạm đến một vấn đề nhạy cảm, đó là trẻ em. Những đứa trẻ trong Tâm hồn mẹ lại là những đứa trẻ có đời sống vất vả, nghèo khổ. Bản thân câu chuyện, bản thân đề tài đã là những vấn đề đầy cảm xúc, mang tính nhân văn cao.
Nhưng tôi không quan trọng việc phim có lấy được nước mắt khán giả hay không. Điều quan trọng là bộ phim nói lên được những vấn đề vừa mang tính con người, vừa mang tính xã hội. Đó mới là mục đích chính của tôi khi làm phim này.
Phim khai thác những vấn đề phức tạp trong bi kịch của người phụ nữ. Cuộc sống mưu sinh vất vả. Vấn đề tình yêu, tình dục của một người đàn bà lao động. Những trớ trêu, mâu thuẫn giữa tiền bạc và tình cảm. Những diễn biến tâm lý bên trong một người mẹ trưởng thành và một người mẹ trẻ con.
Phim của tôi không dành cho những khán giả muốn đến rạp xem sự ồn ào, vui tươi, kích động. Phim khá lặng lẽ, ít thoại. Tuyến nhân vật không có những mâu thuẫn đối kháng ồn ào. Âm nhạc không vui tươi. Chỉ xem và suy ngẫm về những vấn đề đặt ra trong phim. Cũng có thể, sẽ có người nhớ lại tuổi thơ mình trong đó. Hoặc sẽ được nhìn tường tận một cuộc sống đang ngày ngày diễn ra dưới chân cầu Long Biên.
Phim không nói thành lời bất kỳ một ý tưởng nào. Chỉ có những nhân vật sống với nhau, và bên trong họ, mỗi người đều có một nỗi niềm…
Nhân vật chính của phim là một bé gái sống trong nghèo khổ, thiếu thốn tình thương…
Bộ phim Triệu phú ổ chuột đã gây tiếng vang, mặc dù, đề tài về những cuộc đời nghèo khổ không còn là một đề tài mới. Ngày nào báo chí cũng nói đến một hoàn cảnh cùng quẫn vì nghèo đói nào đó đang cần được giúp đỡ ngoài kia. Với Tâm hồn mẹ, chị có điều gì để khán giả bất ngờ trước một đề tài không còn mới?
Có nhiều người đã sống ở Hà Nội cả đời nhưng chưa từng đặt chân đến bãi giữa sông Hồng hay chân cầu Long Biên. Cầu Long Biên là biểu tượng gắn bó với Hà Nội, biểu tượng cho cái đẹp, trữ tình, lãng mạn. Nhiều người còn gọi bãi giữa sông Hồng là thảo nguyên. Nhưng, phía dưới chân cầu Long Biên ấy, ở bãi giữa sông Hồng ấy, đã và đang có những con người sống một cuộc sống không điện, không nước, những đứa trẻ sớm phải mưu sinh, bươn chải với cuộc đời.
Lấy bối cảnh là gầm cầu Long Biên, nhưng phim của tôi đặt ra nhiều góc nhìn cho khán giả sống ở nhiều nơi. Cũng có người xem phim của tôi xong đã nói, “em nhớ Hà Nội quá”. Những đứa trẻ nghèo khổ trong phim của tôi không mang tính điển hình. Ở Việt Nam, có quá nhiều những đứa trẻ như thế.
Phim của tôi là cái nhìn cận cảnh về số phận của một người lao động. Phim ảnh đưa đến cho người xem những gì cụ thể nhất. Càng chân thật, càng thành công.
Bạn hỏi tôi về điều đặc biệt của phim? Điều đặc biết là, khán giả có thể tìm được một thân phận riêng biệt. Nếu ngày ngày bạn vẫn nghe nói về những đứa trẻ nghèo, những số phận vất vả một cách chung chung, thì xem phim, bạn sẽ nhìn vào tận đáy tâm hồn họ.
Một cảnh trong phim
“Làm phim nhựa, lo nhất là… tiền”
10 năm trước, Thung lũng hoang vắng của chị đã ra rạp và được xếp vào dòng phim kén khán giả. Doanh thu đang là một vấn đề với các nhà làm phim. Để phim bán được vé, nhà sản xuất luôn phải chuẩn bị cả một “chiến lược” ra rạp. Chị đã có “chiến lược” cho Tâm hồn mẹ?
Việc đó, hãng phim truyện Việt Nam cũng đang lên kế hoạch. Thế hệ đạo diễn chúng tôi chỉ biết làm phim. Những việc còn lại không thuộc chuyên môn của mình. Tiền nhà nước cho để làm một phim nhựa bây giờ khoảng 3,9 tỷ, trong khi đó, số tiền để sản xuất một phim ít nhất cũng cần đến 5-6 tỷ.
Video đang HOT
Đứng trước một dự án phim nhựa bây giờ, lo nhất là tiền. Làm thế nào để đi xin được tiền làm phim? May mắn cho tôi, khi làm Tâm hồn mẹ, một tổ chức của Pháp sau khi xem kịch bản đã đồng ý tài trợ cho tôi thêm 2,7 tỷ. Họ còn sẵn sàng giúp tôi trong khâu hậu kỳ. Nói như vậy cũng để thấy, một bộ phim nghệ thuật phải cần đến bao nhiêu chất xám, cuối cùng ra rạp lại chẳng có ai xem. Trong khi, phim thị trường lại đắt vé.
Tôi đã đi xem một vài bộ phim thị trường, quả thực, tôi không thể chịu đựng nổi. Phải có cách nào đó, giáo dục hoặc tuyên truyền, để khán giả tẩy chay những phim nhảm nhí và đón nhận những phim nghệ thuật. Trước thực trạng điện ảnh thực tại, tôi thấy tiếc cho khán giả.
Cũng có thể, sẽ không có nhà phát hành nào đứng ra nhận phát hành giúp tôi bộ phim Tâm hồn mẹ. Có thể thế. Dù biết trước phim sẽ vắng khách, nhưng với những đạo diễn như chúng tôi, việc làm một bộ phim nghệ thuật đã nằm trong ý thức, trong quan điểm nghề nghiệp. Chúng tôi làm phim vì những thôi thúc bên trong, vì muốn thể hiện một cái nhìn trước những vấn đề xã hội. Tôi làm phim chỉ đơn giản vì mong muốn được làm.
Đạo diễn Nhuệ Giang (bên phải) chỉ đạo diễn xuất
Làm phim nhựa vừa phải lo chạy tiền làm phim, vừa không bán được vé, tiền không có… Đó là lý do 10 năm qua chị quay sang làm phim truyền hình để cuộc sống của chính bản thân vợ chồng chị đỡ vất vả hơn?
Chắc là thế. Trước đây vợ chồng tôi thực sự ngại làm phim truyền hình. Nhưng cuối cùng nhận ra, nghèo mãi cũng không được. Nghèo mãi sẽ hèn.
Hầu hết các nhà làm phim bây giờ đều thích làm phim với “chân dài”, với villa, biệt thự, xe sang… chỉ có vợ chồng đạo diễn Thanh Vân- Nhuệ Giang vẫn mải mê, rong ruổi với những phận người cơ cực. “Nghèo mãi cũng không được”. Lý do gì khiến anh chị vẫn không về phố, về biệt thự để làm phim truyền hình với các “chân dài”? Lý do gì khiến chị (dù nghèo) vẫn bỏ ra 10 năm để trăn trở với những phận người dưới chân cầu Long Biên?
Tôi thấy phim truyền hình Việt Nam bây giờ giả dối kinh khủng. Phim nào cũng tràn ngập biệt thự, villa, xe sang rồi nhà hàng, quán bar… trong khi, 80% dân số chúng ta là nông dân nghèo khổ. Tôi cũng đã đi làm phim truyền hình, làm đến phim thứ 2, tôi không chịu được.
Phim truyền hình nào cũng xoay quanh nội dung về “các loại tình yêu”. Tôi thích những bộ phim có tính xã hội hơn. Nhưng cuộc sống bây giờ là thế, cái gì càng làm giả ăn dối, càng nhiều tiền. Cái gì càng làm thật, càng ít tiền. Biết như thế, nhưng mình không thể thay đổi được tính cách của mình.
Tôi chỉ làm được những bộ phim khiến cho tôi có cảm xúc. Mình phải có cảm xúc, phim của mới có được cảm xúc. Ví dụ như Tâm hồn mẹ, bản thân câu chuyện về những đứa trẻ trong phim đã khiến tôi xúc động. Mỗi nghệ sỹ hãy đóng góp một tiếng nói về một cuộc đời, một vấn đề xã hội trong tác phẩm của mình.
Chỉ cần bước đến chân cầu Long Biên, bạn sẽ thấy, ở đấy có biết bao nhiêu thân phận…
Một cảnh trong phim
“Không phải vì tôi không có con mà cảm xúc làm phim của tôi nhiều hơn”
Ám ảnh về Tâm hồn mẹ đã theo chị suốt nhiều năm trời để có thể hoàn tất được bộ phim. Xin được hỏi, trong những ám ảnh ấy có cộng thêm cả niềm khát khao làm mẹ của chị?
Đó là sự tổng hợp của nhiều cảm xúc. Là ý tưởng mình thích. Là sự ám ảnh về một thân phận… Tất cả những điều đó hòa quyện vào nhau và tạo ra tác phẩm. Không phải vì tôi không có con mà tâm hồn mẹ ám ảnh tôi nhiều hơn những người mẹ khác. Không phải vì tôi không có con mà cảm xúc làm phim của tôi nhiều hơn.
Thêm một lý do nữa, tôi rất thích trẻ con. Từ bé tôi đã thích trẻ con chứ không phải đợi đến tuổi có thể làm mẹ. Làm việc với trẻ con vô cùng vất vả, nhưng tôi vẫn vui. Nhìn một đứa trẻ diễn đạt trong một phân cảnh, vô cùng thú vị.
Bản thân trẻ con, chúng nó không biết diễn. Chúng nó không có kỹ thuật. Ngay cả ở những đứa trẻ sớm đi đóng phim và có kỹ năng diễn cũng phải xóa sạch những kỹ năng ấy đi. Những diễn viên nhí của tôi, chúng đều là những đứa trẻ được vui chơi, sung sướng, bố mẹ nuông chiều, nhưng khi ra phim trường, chúng đã biết hóa thân vào những số phận nghèo khổ, vất vả. Tôi nghĩ, có thể những diễn viên nhí trong Tâm hồn mẹ sẽ khiến khán giả ấn tượng hơn cả những vai người lớn.
Vợ chồng đạo diễn Thanh Vân – Nhuệ Giang
Chị có nói, chị sẽ đặt Tâm hồn mẹ với tất cả những vấn đề của nó dưới một góc nhìn rất đàn bà. Góc nhìn đàn bà ấy là gì?
Lòng yêu thương, sự hy sinh… Người đàn bà nào cũng có những phẩm chất “dại dột” đó. Tôi đặt bộ phim dưới góc nhìn nhân tính. Người phụ nữ khi yêu họ sẵn sàng hy sinh cả bản thân cho người mình yêu. Ngay cả khi, tình yêu ấy là mù quáng, ngu dại.. Tôi đưa vào phim hai hình ảnh đối lập, một bà mẹ trưởng thành, và một bà mẹ trẻ con (Em bé gái thiếu thốn tình cảm của mẹ đã cố gắng bảo vệ, chăm sóc cho cậu bạn của nó như một người mẹ). Trong khi, người mẹ trưởng thành nông nổi, sai lầm bao nhiêu, người mẹ trẻ con lại chín chắn, già dặn, mạnh mẽ bấy nhiêu… Đó là bộ phim của tôi.
Theo Dân Trí
Phạm Nhuệ Giang và 20 năm làm nên 'Tâm hồn mẹ'
Sau một thập kỷ, đạo diễn "Thung lũng hoang vắng" mới trở lại với điện ảnh bằng bộ phim truyện nhựa "Tâm hồn mẹ", được dựa trên truyện ngắn ra đời từ cuối thập niên 1980 của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
- "Tâm hồn mẹ" là dự án phim điện ảnh được chị ấp ủ trong 20 năm mới thực hiện được. Tại sao chị lại cần khoảng thời gian quá dài như vậy cho một phim truyện 90 phút?
- Thực ra tôi thích truyện ngắn Tâm hồn mẹ từ rất lâu rồi, khi đọc nó vào khoảng 20 năm trước, vì nó nói về hai đứa trẻ rất cá tính. Tôi thích ý tưởng về một đứa bé gái thích làm mẹ của một đứa bé trai khi mới lên 8, 9 tuổi. Điều đó thể hiện tính nữ và bản năng đàn bà rất mạnh. Năm 1996, bộ phim Bỏ trốn, với đề tài xoay quanh những đứa trẻ đã đem lại thành công cho tôi. Tôi đã nghĩ hay là thử làm tiếp một phim về thiếu nhi và nghĩ tới việc chuyển thể Tâm hồn mẹ.
Hồi đấy, tôi có nhờ một số nhà biên kịch nhưng họ đều từ chối vì câu chuyện quá ngắn ngủi nên tôi cũng buông ra, không nghĩ ngợi mấy về nó nữa. Đến một ngày, tôi nhận ra rằng đã quá lâu mình chưa làm phim nhựa và quyết định rà soát lại những gì của Tâm hồn mẹ còn lưu lại trong mình. Sau Thung lũng hoang vắng, tôi bị cuốn vào phim truyền hình, không làm sao thoát ra được. Đến thời điểm dừng lại với phim truyền hình, tôi quyết định làm Tâm hồn mẹ rất nhanh và bắt tay vào viết cũng rất nhanh.
Đạo diễn Phạm Nhuệ Giang.
- Truyện "Tâm hồn mẹ" quá ngắn để có thể chuyển thể thành một bộ phim điện ảnh dài, vậy khó khăn của chị trong quá trình thực hiện ra sao?
- Tôi dựa vào những ý tưởng mà mình thích. Phim của tôi cũng bám theo khá nhiều chi tiết trong truyện ngắn. Nhưng thực ra nếu chuyển thể như trong truyện, về hai ông bà chăm chút cho người cháu luôn mơ về hình bóng bà mẹ thì tôi không thấy nhiều "đất" hay. Cái hay trong truyện, theo tôi, nằm ở việc hai đứa trẻ này thích chơi trò mẹ, con và một đứa muốn dùng uy thế của người mẹ khi đứng trước đứa kia.
Nhưng khi làm thành phim, tôi chỉ khai thác được một khía cạnh đó, còn đâu phải mở rộng đề tài, ý tưởng lớn hơn một chút. Tôi thấy khi chuyển thể Tâm hồn mẹ, nó cũng có cái tự do cho mình sáng tạo. Những vấn đề về người lao động, xã hội, tôi hoàn toàn được mở rộng. Cái khó là mình buộc phải xây dựng một kịch bản thật hoàn chỉnh.
- Trước khi bấm máy "Tâm hồn mẹ", chị từng muốn tìm kiếm một gương mặt hoàn toàn mới. Nhưng cuối cùng, lựa chọn của chị vẫn là Hồng Ánh. Nguyên nhân là chị không tìm được ai, hay vì Hồng Ánh là một lựa chọn an toàn?
- Cả hai lý do đó đều đúng. Ban đầu tôi cũng muốn tìm một gương mặt mới để khán giả không bị ám ảnh bởi diễn viên nổi tiếng. Tôi từng muốn kiếm một gương mặt bình thường thôi, nhưng vẫn phải có vẻ đẹp cine và biết diễn xuất. Tôi cũng liều mạng tìm đến các ca sĩ, như Ngọc Anh Sao Mai chẳng hạn. Cô ấy có vẻ đẹp mộc mạc, hồn nhiên, trong trẻo chứ không phải đẹp kiểu người mẫu, đẹp nhờ son phấn. Nhưng cô ấy lại không dám thử. Tôi nghĩ nếu Ngọc Anh diễn thử và đóng được thì cô ấy đã trở thành một gương mặt mới của điện ảnh.
Nhân vật bà mẹ trong phim là một vai phức tạp, bản năng nữ tính rất mạnh nhưng không hẳn là sâu sắc. Cô ấy vẫn có nét hoang dại, nồng nàn, bồng bột. Trong phim có hình tượng của hai người mẹ. Cô bé con quyết liệt, chín chắn, mạnh mẽ bao nhiêu thì bà mẹ lại ngược lại bấy nhiêu. Điều đó thể hiện những góc độ khác nhau của đàn bà. Khi casting, có rất nhiều gương mặt nữ cũng đam mê vai này nhưng lại không phù hợp. Tóm lại, sau rất nhiều lựa chọn, Hồng Ánh là gương mặt đầu tiên, nhưng cũng là cuối cùng mà tôi nghĩ tới.
Đạo diễn Nhuệ Giang đang trao đổi với diễn viên Hồng Ánh trước một cảnh quay của "Tâm hồn mẹ".
- Chị đã tìm kiếm hai diễn viên nhí trong phim thế nào?
- Trong những bộ phim trước, việc chọn diễn viên nhí với tôi không quá khó khăn vì tôi thường hay tìm được những đứa trẻ gần giống với nhân vật của mình. Nhưng có lẽ lần này điềm may của mình đã hết. Chưa bao giờ tôi tìm kiếm diễn viên nhí lại vất vả như Tâm hồn mẹ, vì các nhân vật trong phim cũng phức tạp. Những đứa bé trong phim khác với những đứa bé bình thường. Chúng có cuộc sống đặc biệt hơn và tính cách cũng mạnh mẽ, quyết liệt hơn.
Để tìm nhân vật Đăng, tôi đã tới gần 20 trường tiểu học, ngồi trực tại Cung thiếu nhi hay bất kỳ những địa điểm nào có hoạt động nghệ thuật cho trẻ em. Tôi chỉ tìm ra em bé thủ vai nhân vật Đăng trước khi bấm máy có hai ngày. Em bé gái, Hoài Linh, vào vai Thu thì tôi đã biết từ 2 năm trước trong bộ phim Lều chõng của anh Thanh Vân. Lần đầu gặp, tôi đã rất thích và nghĩ cô bé này hợp vai. Tuy nhiên, Tâm hồn mẹ lại quay sau đó 2 năm nên cô bé cũng đã lớn hơn. Bản thân tôi thì muốn nhân vật Thu trên phim nhỏ hơn một chút nhưng cũng không thể nào làm khác được.
- Chị nổi tiếng là một đạo diễn biết "chọn" diễn viên. Chị có thể chia sẻ về kinh nghiệm bản thân khi đi tìm kiếm những gương mặt cho các nhân vật của mình?
- Có lẽ là do cái gốc văn học đã ám vào tôi. Khi xây dựng các nhân vật thì tôi đã hình dung, tưởng tượng ra sẵn một hình mẫu và đi tìm những mẫu đó. Người diễn viên phải là người có một vẻ đẹp cine mà không phải ai cũng có được. Nó thể hiện ở gương mặt, nhưng quan trọng là cái tinh thần. Tôi nghĩ mình thành công được trong việc casting là vì tìm thấy được cái tinh thần trong mỗi người diễn viên, mà ở mỗi diễn viên thì đó là bản năng trời phú, không thể tự tạo ra được.
Tuy nhiên, cũng có nhiều diễn viên tôi từng lựa chọn thì họ chỉ đóng đạt đúng một loại vai, sau đó không thấy xuất hiện nữa. Riêng với những diễn viên chuyên nghiệp như Hồng Ánh thì buộc cô ấy phải luôn thay đổi, đặc biệt là trong ứng xử và hành vi khi hóa thân vào nhân vật. Đó là điều mà những diễn viên phải làm được.
Đạo diễn Nhuệ Giang và diễn viên nhí Hoài Linh trên trường quay "Tâm hồn mẹ".
- "Tâm hồn mẹ" có những hình ảnh Hà Nội rất "thơ" và "dân dã" như ánh hoàng hôn ở cầu Long Biên hay những bờ lau rì rào ở bãi sông Hồng. Tuy nhiên, những hình ảnh này cũng từng xuất hiện trong "Bi, đừng sợ" của Phan Đăng Di vừa chiếu cách đây không lâu. Chị nghĩ sao nếu bị so sánh với "Bi, đừng sợ"?
- Tôi không sợ vì Bi, đừng sợ là câu chuyện mà Phan Đăng Di thích bối cảnh đó, và ném nhân vật vào đó. Nhà Bi ở chỗ khác, nhưng cậu bé lại thích tới bãi sông Hồng chơi. Còn câu chuyện của tôi thì đúng tại nơi đó, về cuộc sống của một đứa trẻ sống ngay tại bãi đó. Người mẹ trong phim thì bán hoa quả dạo tại khu chợ dưới chân cầu Long Biên.
Khi nhà bố mẹ anh Thanh Vân chuyển về Gia Lâm, có thời kỳ tuần nào tôi cũng về và đều đi qua cầu Long Biên. Chính vì cái hàng tuần như thế mà khung cảnh nơi đó hiện lên trong lòng mình đầy vẻ tình cảm và đẹp lấp lánh. Tôi bị ám ảnh bởi hình ảnh của cầu Long Biên trong ánh hoàng hôn và bây giờ dù đã quay xong phim, đó vẫn luôn là một điểm nhìn ám vào mình. Hình ảnh cầu Long Biên là tâm điểm, tượng trưng cho một bên là Hà Nội phát triển, một bên là Hà Nội vẫn còn nghèo đói song song với nhau. Nó tạo cho tôi những suy nghĩ và quyết tâm làm một câu chuyện về nơi đây.
- Chị có thể giải thích về những hình ảnh mang tính ẩn dụ trong phim như con chuột hay các loại côn trùng?
- Trong Tâm hồn mẹ, điều khiến tôi thấy thú vị là nỗi buồn, sự trữ tình trong phim nằm ở trò chơi của bọn trẻ con giữa thiên nhiên, tương phản với cuộc sống khắc nghiệt, xô bồ, lam lũ của thành phố. Một cái tương phản nữa là chất trữ tình ở tình cảm của hai đứa trẻ và thiên nhiên. Tất cả hình ảnh như chuột, côn trùng gợi lên sự cô đơn, thơ mộng và được khai thác không chỉ để làm đẹp. Đặc biệt, cảnh mà cô bé Thu đốt chuột gợi lên tuổi thơ của rất nhiều đứa trẻ Hà Nội ngày trước.
- Những bộ phim làm về thiếu nhi của chị dường như đều mang một nỗi buồn man mác. Tại sao lại như vậy?
- Tôi không định làm phim buồn, nhưng vấn đề cuối cùng mà phim đưa ra là như vậy. Nó đề cập tới nỗi buồn của con người bởi đôi khi chỉ vì những sai lầm tình cảm mà con người không thể tự vực được cuộc sống dậy. Trong Tâm hồn mẹ, tôi vẫn thực hiện rất nhiều cảnh ấm áp nhưng vẫn nhấn mạnh về mâu thuẫn giữa những người tốt. Họ đều là những người lương thiện nhưng vẫn cứ cô đơn với nhau giữa cuộc đời.
Đạo diễn Nhuệ Giang bên các sinh viên của mình ở lớp học Dự án điện ảnh do quỹ Ford tài trợ.
- Không chỉ làm đạo diễn, chị còn giảng dạy về điện ảnh tại Dự án điện ảnh của quỹ Ford & trường ĐH KHXH & NV. Chị nhận thấy cách tiếp cận điện ảnh của giới trẻ ngày nay thế nào?
- Tôi thấy môi trường điện ảnh ngày nay tốt hơn ngày xưa rất nhiều vì có nhiều dự án cho các bạn trẻ mê phim tham gia như Làm phim 48 giờ, Tiệc phim trực tuyến Yxine... Hay như quỹ Ford trong 6 năm qua cũng đã tạo ra cả một thế hệ điện ảnh. Tất cả đều làm cho hơi thở điện ảnh trong nước mới mẻ hơn, trẻ hơn và nhiều hy vọng. Tuy nhiên, tôi thấy là giới trẻ giờ có nhiều cơ hội hơn nhưng họ không có đủ đam mê như thế hệ trước. Có lẽ cũng do nhu cầu xã hội, cuộc sống.
Ai mà có đam mê chỉ ngồi viết kịch bản phim nhựa không thôi là rất hiếm. Tính cách thế hệ trẻ bây giờ cũng dễ dãi hơn vì họ muốn kiếm tiền nhanh. Chính vì vậy, mọi thứ đẩy họ lao vào vòng xoáy làm một cái gì đó dễ dàng hơn như truyền hình. Phim nhựa thì vẫn cần năm tháng, vốn sống, sự sâu sắc. Thế hệ người làm điện ảnh trẻ bây giờ cần nhiều tài năng đột phá hơn.
Đạo diễn Phạm Nhuệ Giang sinh năm 1957 tại Hà Nội và lớn lên trong một gia đình mà cả bố và mẹ đều là nghệ sĩ. Bố chị là đạo diễn Phạm Văn Khoa, nổi tiếng với các bộ phim như Chị Dậu, Làng Vũ Đại ngày ấy, còn mẹ chị là nghệ sĩ Bích Châu, diễn viên Nhà hát kịch Hà Nội. Từng muốn theo đuổi nghệ thuật từ bé nhưng năm 1975, chị lại quyết định thi vào Đại học Xây dựng. Sau khi ra trường và đi làm kỹ sư xây dựng không được lâu, chị quyết định thi vào khóa đạo diễn đầu tiên của Đại học Sân khấu điện ảnh, dù lúc đó đã 25 tuổi. Khi thực tập cùng đoàn phim Đứng trước biển, Nhuệ Giang đã gặp gỡ và làm việc với đạo diễn Thanh Vân - người sau này trở thành chồng chị. Năm 1988, sau khi tốt nghiệp, Nhuệ Giang về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam và trở thành nữ đạo diễn duy nhất của hãng. Bỏ trốn, bộ phim truyện nhựa đầu tay của Phạm Nhuệ Giang, ra mắt vào năm 1996, đã giành giải thưởng Ban giám khảo bình chọn tại LHP Quốc gia lần thứ 12 vào năm 1999. Thung lũng hoang vắng vào năm 2002 là bộ phim đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của Nhuệ Giang. Tác phẩm này đã đạt giải Bông sen bạc tại LHP quốc gia lần thứ 13, giải Fipresci cho các đạo diễn trẻ châu Á của Liên đoàn các nhà phê bình phim quốc tế tại LHP quốc tế Melbourne (Australia) năm 2002. Tâm hồn mẹ là phim điện ảnh mới nhất của Phạm Nhuệ Giang, dự kiến khởi chiếu tại các rạp trên toàn quốc vào khoảng giữa tháng 9.
Theo VN Express
Hồng Ánh 'say mê' Quốc Thái trong 'Tâm hồn mẹ' Nữ diễn viên "Thung lũng hoang vắng" hóa thân thành một bà mẹ đơn thân lam lũ và đem lòng yêu anh chàng lái xe do Quốc Thái thủ vai trong bộ phim điện ảnh mới, được ấp ủ suốt 10 năm của đạo diễn Phạm Nhuệ Giang. Sau "Trăng nơi đáy giếng" hồi năm 2008, Hồng Ánh trở lại điện ảnh với...