Lãi suất thực đang quá cao
Chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp trong khi lãi suất tiết kiệm vẫn duy trì ở mức cao gây khó khăn cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Nhưng giảm lãi suất thực không phải là chuyện đơn giản.
Lãi suất cao khiến các dòng vốn thay vì tìm kiếm dự án đầu tư lại chảy vào ngân hàng. Ảnh Thành Hoa
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9-2015 tăng 0,4% so với tháng 12 năm trước, CPI binh quân 9 tháng năm 2015 so với cùng kỳ năm trước tăng 0,74%. Đây là mức tăng CPI thấp nhất trong vòng 10 năm qua tại Việt Nam.
Mặc dù CPI ở mức thấp như vậy nhưng lãi suất tiền gửi tiết kiệm tiền đồng (VND) trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đang duy trì ở mức khá cao, lãi suất tiết kiệm 12 tháng dao động từ 6- 7%/năm tùy theo ngân hàng. Có nghĩa là lãi suất thực tiền gửi tiết kiệm đang ở mức rất cao từ 5,22% – 6,21%/năm.
Việc duy trì lãi suất thực cao như vậy đang gây khó cho nền kinh tế ở khía cạnh các dòng vốn thay vì tìm kiếm dự án đầu tư lại chảy vào ngân hàng để hưởng lợi tức cao với rủi ro gần như bằng không trong khi các doanh nghiệp đang đối mặt với khó khăn kép: tỷ suất sinh lợi trong hoạt động kinh doanh vốn ở mức thấp thì lại phải chi trả chi phí lãi vay (lãi suất thực) rất cao.
Nhưng việc giảm lãi suất thực mà không gây nên các trục trặc cho nền kinh tế không phải là chuyện đơn giản trong thời điểm hiện nay.
Lãi suất thực cao đang gây nên những hệ lụy gì?
Hiện nay, chi phí lãi vay đã trở nên quá cao trong khi tỷ suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư vẫn ở mức thấp đã không khuyến khích hoạt động đầu tư, đặc biệt là từ khu vực tư nhân. Hệ quả là, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm và đẩy gánh nặng thúc đẩy tăng trưởng sang khu vực đầu tư công vốn đã kém hiệu quả trong khi dư địa để mở rộng đầu tư công gần như không còn do tỷ lệ thâm hụt ngân sách lẫn nợ công đều đang ở mức cao.
Lãi suất thực cao, đặc biệt là ở các kỳ hạn ngắn, đã khuyến khích người gởi tiền tập trung vào đây trong khi nhu cầu huy động vốn kỳ hạn dài để đáp ứng nhu cầu cho vay trung dài hạn của hệ thống ngân hàng luôn cao. Điều này làm sâu sắc thêm sự mất cân đối kỳ hạn giữa huy động và cho vay vốn đã tồn tại lâu nay trong hệ thống ngân hàng thương mại của Việt Nam.
Video đang HOT
Lãi suất thực cao cũng làm cho hoạt động kinh doanh các ngân hàng khó khăn hơn và rủi ro hơn.
Giảm lãi suất thực sẽ tác động ra sao đến nền kinh tế?
Về cơ bản, để giảm lãi suất thực thì phải tăng lạm phát và/hoặc giảm lãi suất danh nghĩa. Đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các công cụ chính sách để thực hiện mục tiêu này đều dẫn đến một giải pháp, đó là mở rộng tiền tệ. Tuy nhiên, mở rộng tiền tệ luôn có tác dụng phụ tiêu cực đến nền kinh tế. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, nền kinh tế mới trải qua lạm phát cao và kéo dài, nguyên nhân chính là do chính sách tiền tệ mở rộng quá mức kết hợp với sự thiếu hiệu quả trong hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư công làm cho năng lực sản xuất không theo kịp với mức tăng của nhu cầu (do cung tiền tăng). Nếu mở rộng tiền tệ ở thời điểm hiện tại, khi mà các thách thức trên vẫn tồn tại, thì có thể đẩy mức tăng lạm phát lên nhanh hơn mục tiêu và do đó dẫn đến bất ổn vĩ mô trở nên nghiêm trọng trở lại.
Thứ hai, mở rộng tiền tệ gây áp lực phá giá VND so với USD. Trong khi đó, ổn định tỷ giá là một trong những mục tiêu hàng đầu mà NHNN đang theo đuổi bởi lẽ sự bất ổn tỷ giá sẽ tác động lớn sự ổn định nền kinh tế, làm xói mòn niềm tin đối với nhà đầu tư nước ngoài đối với việc đầu tư lâu dài tại Việt Nam.
Ngoài ra, việc phá giá VND gây ảnh hưởng đến mục tiêu thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ công của chính phủ (do 46% nợ công ở Việt Nam là bằng ngoại tệ), đặc biệt khi mà tỷ lệ nợ công đã tiệm cận mức tối đa mà Quốc hội cho phép. Điều này có nghĩa là với mức độ thâm hụt ngân sách hàng năm vẫn ở mức cao như hiện nay thì bất kì động thái phá giá mạnh nào đối với VND sẽ làm cho nợ công tăng lên (tính theo VND) và điều này ảnh hưởng đến hai vấn đề quan trọng là tỷ lệ nợ công vượt “trần” nợ công theo quy định của Quốc hội là 65% GDP và do đó buộc Chính phủ phải giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách ngay trong năm hiện hành. Đây gần như là điều bất khả thi đối với chính phủ và bất công đối với NHNN bởi lẽ thực tế NHNN phải kiêm thêm nhiệm vụ giữ tỷ giá để “ổn định tỷ lệ nợ công của Chính phủ”.
Nên giảm lãi suất thực như thế nào?
Điều vô lý tồn tại rất lâu trong nền kinh tế VN là các khoản tiền gửi kì hạn rất ngắn dưới 6 tháng mà đặc biệt kì hạn 1 – 3 tháng có lãi suất thực dương rất cao. Trong khi thực tế đây chỉ là các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời được đem gửi ngân hàng và do vậy, về mặt lý thuyết tài chính thì các khoản tiền này phải được hưởng lãi suất thực thấp. Do vậy, việc giảm lãi suất ngắn hạn là giải pháp hợp lý và khả thi tại thời điểm hiện tại.
Điều này có thể thực hiện bằng cách NHNN có thể mua vào các giấy tờ có giá ngắn hạn và bán ra trái phiếu với giá trị tương ứng. Việc mua bán này sẽ không làm thay đổi cung tiền và do vậy sẽ không ảnh hưởng đến lạm phát nhưng lại có tác dụng có thể ngay lập tức sẽ làm tăng lượng cung tiền kỳ hạn ngắn qua đó làm giảm lãi suất ngắn hạn, đồng thời biện pháp này làm giảm lượng vốn trung dài hạn tạm thời và do đó tăng lãi suất trung dài hạn. Lãi suất ngắn hạn giảm trong khi lãi suất trung dài hạn tăng sẽ giúp dịch chuyển khoản tiền gởi tiết kiệm “thực sự” từ kì hạn ngắn sang kì hạn dài và do đó sẽ giúp giảm lãi suất trung dài hạn trở lại.
Việc giảm lãi suất thực là giải pháp cần thiết phải làm trong thời điểm hiện tại, đặc biệt là lãi suất thực đối với nguồn vốn ngắn hạn, bởi lẽ điều này giúp làm giảm chi phí vốn đối với nền kinh tế, qua đó thúc đẩy hoạt động đầu tư để kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, dư địa cho việc giảm lãi suất của chính sách tiền tệ đang ở mức thấp khi mà NHNN cùng một lúc phải đạt được rất nhiều mục tiêu trái chiều nhau như kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và kích thích tăng trưởng…. do vậy, việc lựa chọn để giảm lãi suất theo từng kì hạn ngắn và dài khác nhau cũng là một lựa chọn nên được cân nhắc.
Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn
Còn xa Việt Nam mới phải tính đến câu chuyện giảm phát
Việc chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2015 (CPI tháng 9/2015) giảm 0,21% so với tháng trước và chỉ tăng 0,4% so với tháng 12/2014 khiến không ít quan điểm cho rằng, Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ thiểu phát. Có thực sự là như vậy?
Lạm phát thấp là do giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu trên thị trường thế giới giảm mạnh. Ảnh: Đức Thanh
Những lo ngại về vấn đề thiểu phát ở Việt Nam thực tế đã được đặt ra từ tháng trước, khi Tổng cục Thống kê công bố, CPI tháng 8/2015 giảm 0,07% so với tháng trước, và đây là lần đầu tiên trong vòng 10 năm qua, CPI tháng 8 giảm.
Xu hướng này tiếp tục trong tháng 9/2015, thậm chí theo chiều hướng mạnh hơn, khi đã giảm tới 0,21% so với tháng trước và chỉ tăng 0,4% so với tháng 12/2014.
Tháng 9 là tháng thứ 4 trong năm, CPI giảm so với tháng trước, khiến bình quân chung trong 9 tháng đầu năm, mỗi tháng, CPI chỉ tăng 0,04% - cũng là mức tăng thấp nhất trong vòng 10 năm qua.
Tương tự, đây cũng là lần đầu tiên trong vòng 1 thập kỷ qua, lạm phát theo cách tính của Việt Nam sau 9 tháng mới chỉ ở mức 0,4%. Con số này của các năm 2008 và 2011, là hai năm Việt Nam lạm phát cao, tương ứng lên tới 21,87% và 16,63%. Năm ngoái, dù lạm phát cả năm ở mức thấp (1,84%), nhưng ở thời điểm hết quý III, con số này cũng là 2,25%.
Và thậm chí, nếu so với cùng kỳ, thì CPI tháng 9/2015 bằng 100% của cùng kỳ năm trước. Đây là điều ít khi xảy ra ở một nền kinh tế thường xuyên phải vật lộn trong vòng xoáy lạm phát cao như Việt Nam.
Tất cả những dấu hiệu này khiến dư luận không khỏi quan ngại về nguy cơ thiểu phát, thậm chí là giảm phát ở Việt Nam. Tờ Finacial Times đã dẫn các số liệu thống kê về CPI trong tháng 9/2015 để cho rằng, Việt Nam đang vào nhóm các quốc gia "mấp mé" bờ vực giảm phát, với một đợt sụt giảm nhu cầu, giá hàng hóa và chi phí sản xuất.
Tuy nhiên, trái với quan điểm này, ông Eric Sidgwick, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) khi trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư đã khẳng định, Việt Nam còn xa mới phải tính đến câu chuyện giảm phát.
"Dự báo lạm phát thấp trong năm nay vì giá cả hàng hóa giảm, nhất là giá dầu, chi phí sản xuất - kinh doanh giảm. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng và tiêu dùngthời gian tới sẽ đẩy lạm phát tăng lên", ông Sidgwick nói và cho biết, ADB dự báo, lạm phát của Việt Nam trong 2016 của Việt Nam có thể lên tới 4%.
Trong khi đó, lý giải về mức lạm phát cực thấp của Việt Nam, Tổng cục Thống kê nhấn mạnh, lạm phát thấp không phải do tổng cầu giảm mà hoàn toàn do yếu tố chi phí đẩy giảm. Và một trong những lý do cơ bản nhất, đó là giá dầu thô đã giảm mạnh trên thị trường toàn cầu, kéo theo giá đầu vào nhiều mặt hàng giảm mạnh.
Dẫn số liệu về lạm phát cơ bản, với 9 tháng ở mức 2,15% và lạm phát chung (CPI bình quân 9 tháng) là 0,74%, ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho rằng, lạm phát cơ bản ở mức 2-3% như hiện nay là mức cân bằng, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững.
Chuyên gia cao cấp Cao Viết Sinh, sau cuộc họp với tổ chuyên gia tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ vào cuối tuần trước cũng đã một lần nữa khẳng định điều này với phóng viên Báo Đầu tư. "Không có chuyện thiểu phát hay giảm phát ở Việt Nam. Giá giảm, lạm phát thấp là do giá nhiều mặt hàng thiết yếu trên thị trường thế giới giảm mạnh. Lạm phát thấp, nhưng vẫn có tăng trưởng cao", ông Sinh nói.
Số liệu chưa được chính thức công bố, nhưng nhiều khả năng, tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm vẫn ở mức cao, đưa tăng trưởng kinh tế cả năm vượt mục tiêu đề ra, đạt khoảng 6,5%. Đây là cơ sở để Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự thảo Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 với chỉ tiêu tăng trưởng GDP 6,7%, thay vì 6,5% trước.
Câu chuyện hiện tại nằm ở chỗ, đã từng có một nghiên cứu của Học viện Chính sách Phát triển chỉ ra rằng, với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, ngưỡng lạm phát hợp lý phải là 6-7%, thì tăng trưởng kinh tế mới có thể ở mức cao được.
Nghiên cứu này đã nhận được sự đồng tình của không chỉ các chuyên gia kinh tế, mà cả các nhà hoạch định chính sách. Bởi vậy, tại phiên họp của Tổ công tác phối hợp điều hành kinh tế vĩ mô tháng trước, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã "đặt hàng" các chuyên gia một câu hỏi rằng, vì sao lạm phát của Việt Nam thấp như vậy mà vẫn có tăng trưởng cao?
Nhìn một cách hoàn toàn lý thuyết, thì nếu lạm phát chỉ 2% thì làm sao Việt Nam có tăng trưởng được? Năm ngoái, lạm phát của Việt Nam là 1,84%. Năm nay, mục tiêu điều hành lạm phát là 5% để đảm bảo có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm ngoái (6,2%), nhưng với diễn biến hiện tại thì có thể, lạm phát năm nay còn thấp hơn cả năm ngoái.
"Lạm phát thấp, nhưng vẫn có tăng trưởng cao là vì sản xuất đang phục hồi, trong khi giá nguyên vật liệu đầu vào thấp, dẫn tới hiệu quả sản xuất - kinh doanh cao hơn, và qua đó, tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế", chuyên gia cao cấp Cao Viết Sinh lý giải.
Trong khi đó, với câu hỏi về nghiên cứu của Học viện Chính sách Phát triển, vị chuyên gia này cho rằng, về dài hạn "vẫn sẽ phải như vậy". Điều đó có nghĩa rằng, vẫn cần có một mức lạm phát hợp lý để kinh tế Việt Nam có một tốc độ tăng trưởng hợp lý.
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Kinh tế Việt Nam có lo nguy cơ thiểu phát? Việc chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2015 (CPI tháng 9/2015) giảm 0,21% so với tháng trước và chỉ tăng 0,4% so với tháng 12/2014 khiến không ít quan điểm cho rằng, Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ thiểu phát. Có thực sự là như vậy. Những lo ngại về vấn đề thiểu phát ở Việt Nam thực tế đã được...