Lạ lùng: Cầm 5.000 đồng ra chợ này vẫn mua được đặc sản
Chỉ cần 5.000 đồng có thể mua được mớ rau, mớ ốc đá, cua đồng, ếch đồng, sùng đất, mụt măng hoặc vài quả mướp, rau dớn… những thực phẩm đặc sản mang đậm mùi hương của núi rừng…
Tất cả sản phẩm sạch ấy, hoặc tự sản xuất, hoặc hái lượm của người dân tộc H’rê, được bày bán trong lòng chợ Ba Tơ (huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi). Một nét văn hóa đặc trưng miền sơn cước khiến hầu hết người dân miền xuôi đến đây không khỏi ngạc nhiên đầy thú vị.
Phiên chợ 5.000 đồng của người H’rê bắt đầu từ tờ mờ sáng đến khoảng 8 giờ là kết thúc
Bán đồng giá
Đó là giá mỗi món hàng thực phẩm sạch tự sản xuất của người dân H’rê khi đem ra chợ Ba Tơ bày bán. Món nào cũng vậy. Người dân tham gia phiên chợ chia hàng thành từng phần nhỏ, mỗi phần đều đồng giá 5.000 đồng.
Rau nấu canh chia thành bó, rau sống chia thành rổ nhỏ, mướp hoặc củ quả chia thành từng phần và được buộc chặt bằng sợi lạt tre, hoặc dây bẹ chuối khô. 1 mụt măng lớn hay 2 mụt nhỏ cũng đều giá 5.000 đồng. Cua đồng, lươn đồng, ếch núi, ốc đá dưới suối… được chia ra đồng đều, bỏ trong chiếc túi ni lông nhỏ, cột lại.
Tất cả đều do đồng bào H’rê bắt từ ruộng đồng, sông suối. Dù chỉ 5.000 đồng nhưng cũng đủ để nấu 1 nồi canh rau, 1 đĩa ếch núi chiên… cho gia đình nhỏ (khoảng 3-4 người ăn).
Phiên chợ 5.000 đồng bắt đầu từ 4 giờ 30 đến khoảng 8 giờ sáng là hết, còn lại là các tiểu thương buôn bán cố định tại chỗ. Có mặt từ sáng sớm, chúng tôi có dịp trải nghiệm 1 phiên chợ mang đậm nét đặc trưng của người H’rê.
Video đang HOT
Khi được hỏi, vì sao không bán giá khác mà chỉ bán đồng giá 5.000 đồng, chị Phạm Thị Hồng (người H’rê đang bán hàng) nói: “Xưa giờ người đồng bào chúng tôi vẫn bán như thế. Trước kia ông bà cha mẹ không có tiếp xúc với tiề.n, nên tiề.n lớn quá không biết thối lại, cũng không có tiề.n để thối. Vậy nên chia phần nhỏ bán như thế này sẽ dễ dàng hơn cho chúng tôi. Ngay cả bây giờ, ai mua mớ rau mà đưa 100.000 đồng tôi cũng trả tiề.n lại không bán, vì không có tiề.n thối…”.
Theo chị Phạm Thị Hồng, người mua họ cũng quen rồi, nên đưa tiề.n mệnh giá nhỏ hoặc đưa đúng 5.000 đồng cho người bán, cho thuận tiện. Hàng ngày, bà con ngoài việc trồng keo, làm lúa thì đi mò ốc, bắt cua, hoặc trồng rau, quả quanh nhà, được gì bán đó, kiếm thêm thu nhập…
Chúng tôi bắt gặp anh quản lý chợ Ba Tơ đến thu tiề.n vệ sinh với giá 1.000 – 2.000 đồng. Lý giải cho việc này, anh nói: “Người đồng bào dân tộc bán nhỏ lẻ những món hàng “cây nhà lá vườn” 5.000 đồng/món. Mỗi ngày nhiều nhất cũng chỉ vài chục ngàn đồng, thu nhiều tiề.n lấy đâu họ đưa. Hơn nữa, để tạo điều kiện cho họ đến buôn bán kiế.m tiề.n, chúng tôi cũng chỉ thu như thế. Nguồn thu chính là các tiểu thương buôn bán cố định tại chỗ…”.
Phát huy nét đẹp chợ truyền thống
Chợ Ba Tơ đi vào hoạt động từ năm 2012, bắt đầu từ tờ mờ sáng đến 19 giờ mới đóng cửa. Thời điểm sầm uất nhất là từ khoảng 8 giờ sáng, sau đó hầu như chỉ đón khách vãng lai.
“Tuy là chợ cấp xã nhưng nằm ngay trung tâm của huyện, vậy nên chợ buôn bán rất nhộn nhịp. Đây là chợ truyền thống của huyện, các mặt hàng nông sản do người dân tự sản xuất nên rất nhiều và đa dạng. Những quầy chính cố định đa số là người Kinh làm chủ, còn lại các mặt hàng rau củ quả do bà con người dân tộc buôn bán. Hiện thách thức lớn nhất đối với chợ truyền thống là tính tự phát, ban quản lý chợ chỉ quản lý khu vực chợ, còn những chợ tự phát thì chưa quản lý được”, anh Nguyễn Khắc Đệ, Ban quản lý chợ Ba Tơ nói.
Theo bà Đinh Thị Y Ban Quý, 3 năm gần đây, bà con dân tộc đã thực hiện rất tốt, người dân tự trồng được rau sạch, tự chăn nuôi sản xuất và buôn bán. “Chúng tôi vẫn khuyến khích, vận động bà con để duy trì thực hiện tốt hơn nét đặc trưng sản phẩm “5.000 đồng” này. Một điều đáng lo hiện nay là bà con người dân tộc buôn bán không theo một khu vực tập trung, gặp đâu ngồi đó ở ngoài khu vực chợ…”, bà Quý cho hay.
“Chúng tôi đang thực hiện phương án đưa tất cả bà con này vào tập trung buôn bán trong chợ và bố trí cho họ những vị trí thích hợp để buôn bán trong một khoảng thời gian nhất định vì họ không bán cả ngày. Chúng tôi đã trao đổi với ban quản lý chợ để sắp xếp nhưng chưa triển khai thực hiện được, trong thời gian tới sẽ có giải pháp vì đây cũng là một điểm văn hóa đặc trưng cần giữ gìn để thu hút khách du lịch”, bà Quý nói.
Có thể nói, người H’rê đã đem lại cho huyện Ba Tơ một bản sắc văn hóa đặc trưng giàu truyền thống. Được thể hiện không chỉ là nhà sàn, thổ cẩm, cồng chiêng và các lễ hội… mà còn có nét văn hóa chợ “5.000 đồng” không phải ai cũng biết đến.
Có lẽ, đã đến lúc cần chung tay bảo tồn và gìn giữ văn hóa chợ của người dân tộc H’rê như một trong những sản phẩm du lịch khác của địa phương nhằm thu hút khách đến tham quan thưởng ngoạn. Hiện nay, từ Quảng Ngãi đi Ba Tơ – Ba Vì (gần 60km) đã có tuyến xe buýt số 4 bắt đầu từ 5 giờ 10 và kết thúc lúc 19 giờ 10. Điều này rất thuận lợi cho người miền xuôi lên huyện miền núi này tham quan.
Theo Ngọc Phúc (SGGP)
Đặc sản ếch núi "ngàn năm tráng kiện", có tiề.n cũng không dễ mua
Tuy giá không quá đắt như một số đặc sản rừng khác, thế nhưng người tham và số lượng bắt rất ít nên ếch núi được xếp vào loại một trong số đặc sản hàng hiếm ở vùng cao Quảng Ngãi.
Những ngày giữa hạ, thỉnh thoảng miền núi Quảng Ngãi mưa lại đổ xuống. Thế nhưng sự đỏn.g đản.h của tiết trời miền cao chưa đủ làm chùn bước người dân ở một số bản làng trong tỉnh đi tìm bắt ếch núi.
Ếch núi, một trong số đặc sản hàng hiếm ở Quảng Ngãi
Không to như đồng loại sống ngoài tự nhiên, hay được nuôi nhốt ở đồng bằng, ếch núi có hình dáng thon, dài và kích cỡ con to nhất bằng phân nữa cổ tay nhất người lớn còn trọng lượng bình thường của nó nặng từ 50-150 gram/con. Ếch núi có màu sậm đen, sống chủ yếu hang, hốc đá ở dọc ven bờ suối và nơi ẩm ướt.
Ếch núi được bày bán ở thị trấn Ba Tơ, huyện Ba Tơ
Anh Đinh Văn Beo (34 tuổ.i), ở xã Ba Xa, huyện Ba Tơ, người có thâm niên hơn 5 năm đi bắt con vật này bộc bạch: Mùa đi bắt ếch núi chủ yếu là vào mùa khô, khi nước các con suối đã cạn kiệt. Lúc mưa lũ cũng có nhưng do đường đi khó khăn và khá nguy hiểm nên chẳng mấy ai dám đi. Việc đi bắt thường vào ban đêm, bằng cách dùng đèn soi đi dọc ven bờ đá các con suối để tìm. Khi phát hiện thì chủ yếu dùng tay, chứ không phải vợt, nơm để chụp xúc.
Việc đi bắt ếch núi của người dân các bản làng chủ yếu là mang về làm thức ăn cho gia đình, biếu người thân
Bình thường cứ 1 đêm đi bắt thì nghỉ 3-4 đêm, chờ ếch từ nơi khác xuống mới đi bắt lại, với số lượng được từ 4-6 kg/đêm/người. Những hôm nào mà trời bất ngờ có mưa, ếch ra nhiều hơn thì được gần cả chục kg/đêm/người. Tuy nhiên để bắt được số lượng ếch trên, người dân phải thức cả đêm và đi rất xa nên tốn rất nhiều công sức, vất vả. Vì vậy rất ít người tham gia đi bắt con vật này.
Thỉnh thoảng ếch núi mới được người bắt đưa ra chợ để bán
Bên cạnh đó thịt ếch núi rất dai, thơm và ngon gấp nhiều lần so với ếch sống ở đồng bằng cho nên người dân thường mang về làm thức ăn cho gia đình, biếu người thân. Chính vì vậy dù giá bán hiện lên đến 150.000 đồng/kg, nhưng chỉ thỉnh thoảng người bắt mới mang ếch núi ra chợ để bán. Theo đó dù có tiề.n nhưng không dễ để mua về chế biến, thưởng thức.
Quảng Ngãi: Bất ngờ nổi tiếng, rừng sim dại mang lại thu nhập cao Thảo nguyên Bùi Hui, ở xã Ba Trang, huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi) được nhiều người tìm đến "check in" không chỉ với những đồng cỏ mênh mông, mà ở đó còn có những đồi sim vô cùng thơ mộng. Xác định việc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo gắn liền với bảo tồn và phát triển cây sim rừng, kết...