Lạ kỳ làng “cơm ngày 2 bữa”
Người ta vẫn thường gọi những làng biển ấy là làng “cơm ăn ngày 2 bữa” vì giờ giấc sinh hoạt của họ chẳng giống ai. Những bữa cơm không phân biệt sáng – trưa – tối mà về nhà lúc nào ăn lúc đấy. Họ chỉ có 2 bữa ăn vào lúc rất lạ đời: giữa buổi sáng và giữa buổi chiều, hoặc nửa đêm và quá trưa…
Mẹ về con ngủ, mẹ ngủ… con về!
Làm nhà chỉ cho chó mèo ở Ông Hồ Hữu Tam (xóm 8, xã Quỳnh Lương, Quỳnh Lưu) chia sẻ: “Dân chúng tôi vẫn thường nói với nhau mình làm nhà cho gà và chó mèo ở, vì nhà xây xong để đó, cửa không khi nào đóng, nhưng người thì ở ngoài ruộng rau với ngoài chợ. Nhiều khi nhìn vợ con cũng thấy vất vả quá, đến ăn bữa cơm mà quanh năm không khi nào thấy thong thả”.
Dọc theo bờ cửa sông Cấm (Nghệ An), thi thoảng lại gặp một bến sông đậu lúp xúp những con thuyền nhỏ. Đó là thuyền của những dân chài “chưa khá giả”. Không có đủ tiền để mua thuyền to, họ đi thuyền nhỏ, đi về trong ngày và hình thành nếp sinh hoạt đặc trưng bao nhiêu năm nay. Cứ nửa chiều, họ kéo nhau đi câu, trở về khi 7 – 8 giờ sáng, ăn bữa cơm rồi đi ngủ. Đến tận 3 – 4 giờ chiều, dậy ăn tiếp bữa cơm nữa rồi chuẩn họ bị cho một đêm làm việc mới. Cứ như thế nhiều năm, nhiều đời rồi, đến nỗi cái đồng hồ sinh học thành phản xạ khiến cho những ngày nghỉ được ở nhà với nếp sinh hoạt bình thường của người dân sông Cấm này lại trở nên lạ lẫm.
Chúng tôi gặp người phụ nữ tên Thủy khi chị đang vác bó lưới lên bờ. Ở những vùng như Nghi Thiết, Nghi Quang… ( huyện Nghi Lộc, Nghệ An), phụ nữ cũng ra khơi, khác với một số vùng lại có tục kiêng không cho đàn bà con gái bước chân lên thuyền, đi biển là việc của đàn ông, nơi đây, cứ mỗi thuyền là 2 vợ chồng đi với nhau. Đến khi thuyền đầy cá, mực, ghẹ… họ có thể bán ngay tại cảng Nghi Thủy, hoặc về thẳng cửa sông gần nhà rồi vợ bán buôn, còn chồng xếp lưới, rửa thuyền cho sạch sẽ. Hỏi chị, vợ chồng cùng đi biển như thế, con cái ở nhà để cho ai, chị cười buồn: “Thì để cho ông bà chứ còn ai nữa, nhưng thường thì đứa mô đi học rồi thì cũng biết đi chợ, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa cho bố mẹ. Đứa lớn trông đứa bé”.
Trẻ con vùng này sớm tự lập, sớm biết lo lắng những việc nhỏ trong nhà để bố mẹ ra khơi, hơn nữa nếu không đảm việc sớm như thế, cũng chẳng ai làm cho. Chúng cũng sớm quen với lối sinh hoạt khác thường của bố mẹ mình so với những nơi làm nông hay làm nghề khác.
Những ngư dân đang gỡ lưới sau khi thuyền về. Ảnh: H.Hà
Chị Thuỷ kể: Thường cứ về nhà nấu cơm ăn thì con đi học buổi sáng rồi. Có những hôm về mệt quá, ngủ say, lúc dậy thì thấy con nấu cơm úp sẵn lồng bàn đó rồi đi học tiếp buổi chiều, bố mẹ dậy chuẩn bị đi biển, rứa là cả mấy ngày không nhìn thấy mặt con”. Những ngư dân ấy, vẫn thường đùa với nhau một cách hài hước về cái tên “cơm ngày 2 bữa” của làng mình, nhưng đó là chất chứa bao nỗi vất vả, lo lắng: Là nước da đen sạm; Là đôi mắt thâm quầng vì thức đêm (dù đã được ngủ bù vào ban ngày); Là mùi cá mực đi vào hơi thở, da thịt mình… Ai cũng có thể chọn cho mình một nghề, một nếp sống, nhưng xưa nay sinh ra ở biển thì lớn lên và sống nhờ vào biển. Đó là cái nghiệp mưu sinh chưa bao giờ dễ dàng mà phải đánh đổi bằng nước mắt và mồ hôi, thậm chí cả sinh mạng ngư dân nhưng lại trở thành cái nghề truyền đời bao thế hệ, khó mà dứt bỏ được.
Không đi biển cũng “ăn cơm khác người”
Video đang HOT
Muốn con cái đổi nghề Điều lo lắng của ngư dân làng “cơm 2 bữa” này, ngoài những cơm áo gạo tiền mà ai cũng như ai, là tương lai, việc học hành của con cái. Khi chúng sớm biết tự lập thì cũng biết cả đi biển là có tiền. Xa vắng sự thúc giục, sự quan tâm sát sao từng ngày của bố mẹ, những đứa trẻ sớm ham đi thuyền ra biển để có tiền hơn là đi học… Họ làm lụng vất vả, cũng để mong sau này con cái nên người, đi làm cái nghề khác thay cho nghề vất vả của cha mẹ, hoặc dù nối nghiệp ra khơi, cũng “có học có hơn, tháo vát làm ăn khấm khá để sắm thuyền to hơn đời bố mẹ nó”.
Chúng tôi sang bến Lộc Mỹ (xã Nghi Quang, Nghi Lộc) khi những con thuyền đã nằm im lìm cạnh những lồng bè nuôi cá của ngư dân sống quanh đây, gặp ông Nguyễn Văn Thông (66 tuổi) đang neo chặt thuyền vào bờ, ông vui vẻ góp chuyện: “Từ sáng thuyền đã về, mua bán xong xuôi xếp lưới gọn gàng, giờ này thì chẳng còn mấy ai ở ngoài bến nữa mô, về ngủ từ lâu rồi. Tôi vừa đi thuyền, vừa đóng bè nuôi cá nên giờ ni mới ra cho cá ăn, rồi ngủ lại trên bè luôn. Nhà tui có 5 đứa, phải làm mà nuôi con. Chúng tôi vẫn có giờ giấc đàng hoàng chứ, chẳng qua không giống giờ của người khác thôi…”.
Cũng là làng biển, cũng cơm ngày 2 bữa dù không hề đi biển là làng trồng rau ở xã bãi ngang ven biển Quỳnh Lưu như Quỳnh Lương, Quỳnh Bảng, Quỳnh Liên… nổi tiếng từ lâu khắp trong ngoài tỉnh Nghệ An là những làng trồng rau màu. Thiên nhiên cho họ cái thứ đất cát pha, chỉ cuốc nhẹ là trồng lên đó bao nhiêu cà chua, rau cải, mướp đắng, hành hoa… tươi tốt và ông cha để lại cho họ cái nghề trồng rau đổi lấy lúa gạo.
Ở trên bờ, chẳng phải lênh đênh với biển, nhưng nghề nào cũng có cái vất vả riêng, cũng sớm khuya tất bật, chân tay lấm lem với đất. Xưa kia, đòn gánh kĩu kịt trên vai, nửa đêm trở dậy nhổ rau chất đầy 2 sọt, rồi ăn vội bát cơm, chở rau đi nhập, đi bán đến quá trưa mới trở về. Chẳng kịp nghỉ ngơi, họ lại xắn quần ra ruộng tưới nước cho rau. Đất cát nhanh ngấm nước mà cũng mau khô, trồng rau cho tốt phải tưới liên tục cả ngày lẫn đêm như thế. Bây giờ, cuộc sống đã khác xưa nhiều lắm. Người ta còn bảo nhau làng trồng rau nhìn nhà cửa nhếch nhác thế thôi, chứ dân giàu chẳng nghèo đâu. Nhưng, cái no đủ ấy là chính đáng, là đổi bằng bao giọt “mồ hôi mà đổ xuống đồng” của người dân nơi đây.
Người trồng rau hiện nay đã “khỏe” hơn nhiều bởi xe cộ vào tận ruộng rau. Những “nhà” buôn rau còn nhận luôn phần nhổ rau, buộc rau, đóng bì và chở đi luôn. Nhưng cái công chăm rau thì sớm tối liên tục người nông dân không thể rời ra được, bất kỳ một giai đoạn nào từ khi mới gieo trồng cho đến khi thu hoạch đều phải lo lắng và “lăn ra ngoài ruộng”, không giống như trồng lúa còn có tháng nông nhàn. Họ cũng không thể nào bỏ được thói quen chạy chợ sớm đi – trưa về vì sau khi nhập số lượng lớn cho nhà buôn, còn lại họ vẫn thu hoạch đem ra chợ bán lẻ. Đồng tiền thu được sau bao nhiêu công sức, chi phí giống, phân, thuốc men bỏ ra… đối với họ cũng chẳng hề đơn giản.
Vậy nên, những đêm thức dậy khi gà chưa gáy sáng, những giấc ngủ tranh thủ chợt mắt gà gật ngoài chợ người qua kẻ lại, những bữa cơm nuốt vội, đã thành thói quen, thành cuộc sống hằng ngày của những người trồng rau, từ xưa đến nay chưa hề thay đổi. Họ vẫn sống như thế, với những buồn vui tất bật. Và những người cơm ngày 2 bữa ấy, khi không có việc để làm, khi tay chân bỏ không, mới là lúc họ thấy không quen, thấy bất thường…
Theo Hồ Hà
Vùng biển lắm tai ương
Để có những chuyến tàu, thuyền cập bến với cá nặng lưới đầy, người dân miền biển, nhất là người phụ nữ, không ít lần phải ngậm đắng nuốt cay mỗi khi đại dương nổi trận cuồng phong.
Xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa nằm quay mặt ra phía biển. Đất chật người đông lại không có đất nông nghiệp nên đi biển là nghề chính. Biển đã nuôi sống bao thế hệ con người của mảnh đất này nhưng cũng đã lấy đi không ít máu và nước mắt.
Kinh hoàng bão, lốc
Nhắc lại cơn bão năm Tân Mùi 1931, giọng ông Trần Văn Hạnh trầm buồn: "Đã là người con của Diêm Phố (tên trước đây của xã Ngư Lộc), không ai quên được cơn bão năm đó. Một trận bão lớn và đến bất ngờ đã nhấn chìm hầu như toàn bộ thuyền bè đánh bắt ngoài khơi và cướp đi vĩnh viễn 344 người con của Ngư Lộc".
Chồng mất, một mình nuôi 8 đứa con cùng nợ nần chồng chất khiến bà Nguyễn Thị Sao sống trong tủi cực. Ảnh: Đức Ngọc
65 năm sau, người dân huyện Hậu Lộc lại đón nhận một trận cuồng phong khác, cướp đi sinh mạng 121 người, trong đó Ngư Lộc có hơn 60 người. Theo ông Nguyễn Ngọc Đa - Trưởng thôn Thắng Tây, xã Ngư Lộc - năm nào cũng vậy, dù trời yên biển lặng, Ngư Lộc cũng có ít nhất vài ngư dân đi mãi không về.
Cũng chứng kiến nhiều thảm kịch không kém là 2 ngôi làng lốc ở tỉnh Nghệ An. Sở dĩ gọi là làng lốc vì hàng chục ngư dân của làng này đã phải bỏ mạng trong những trận lốc xoáy kinh hoàng quét qua biển. Làng lốc Trung Mỹ thuộc xã Diễn Hải, huyện Diễn Châu, 30 năm về trước có tổng cộng 51 người đàn ông thiệt mạng. Còn làng lốc Tân Lập thuộc xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc thì có 36 ngư dân bị lốc cuốn chết cách nay hơn 20 năm.
Rồi không chỉ vì giông lốc, những cuộc mưu sinh trên biển luôn bấp bênh theo con nước và mang nhiều hiểm họa khó lường. Hầu như năm nào ở đây cũng có vài người nằm lại với biển.
Sau một đêm bỗng thành góa phụ
"Lấy chồng nghề ruộng em theo. Lấy chồng nghề biển hồn treo cột buồm".
Đó là câu ca dao mà bất cứ người phụ nữ nào sinh ra, lớn lên trên dải đất ven biển miền Trung cũng thuộc nằm lòng. Bởi lẽ, lấy chồng nghề biển, có khi sau một đêm đã trở thành góa phụ. Tính từ năm 1996 đến nay, xã Ngư Lộc có tới 142 phụ nữ góa chồng, cuộc sống của họ vô cùng vất vả.
Bà Đồng Thị Quyên đau buồn khi nhắc về người chồng vắn số. Ảnh: Tuấn Minh
Ghé thăm nhà bà Đồng Thị Quyên (50 tuổi, ở thôn Thắng Tây), có chồng tử nạn cùng 8 người khác trong vụ đắm tàu vào tháng 9-2010, nhắc chuyện cũ, bà òa khóc: "Thoát chết trong trận lốc năm 1996, về nhà ông ấy hứa sẽ không bao giờ đi biển nữa. Thế rồi thằng cháu có tàu mới rủ ông ấy đi và từ đó không về nữa. Cũng vì miếng cơm manh áo mà thôi...".
Lau nước mắt, bà Quyên cho biết số phận hẩm hiu không chỉ gọi tên bà. Ở mảnh đất ven biển này, số phụ nữ có chồng bỏ mạng khi đi biển nhiều không kể hết. Có người cưới nhau nằm chưa ấm gối thì chồng đã vĩnh viễn không về, có người chồng chết khi con còn đỏ hỏn.
Còn ở 2 làng lốc của Nghệ An, số phụ nữ góa chồng cũng lên đến hàng trăm. Riêng trong 2 trận lốc thì có đến khoảng 50 người. Hiện nay, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy cảnh những người đàn bà nằm gào thét vật vã trên bãi biển khi chồng, con đi biển không về. Dù mỗi người một số phận nhưng đa số những người phụ nữ đó vẫn không đi bước nữa mà ở vậy nuôi con.
Chồng chết trong một vụ đắm thuyền vào tháng 6/2011, bà Nguyễn Thị Sao (SN 1962, ngụ xóm Tân Lập) phải một mình nuôi 8 đứa con và lo trả món nợ 100 triệu đồng vay mượn để đóng thuyền. "Mất chồng, mất cả thuyền khiến gia đình tôi rơi vào cảnh túng quẫn. Có lúc tuyệt vọng, tôi đã nghĩ đến cái chết nhưng nghĩ đến mấy đứa con nên gắng gượng" - bà Sao xót xa.
Bà Đậu Thị Hoa ở xóm Trung Mỹ, có chồng chết vì gặp lốc khi đi biển, cho biết: "16 tuổi mất cha, 26 tuổi thì mất chồng. Lúc anh ấy mất, tôi nghĩ mình không thể sống được vì lấy gì để nuôi mẹ già và 4 con nhỏ. Tôi làm đủ thứ nghề để sống, có nhiều người đến hỏi cưới nhưng vì thương con nên tôi quyết định ở vậy, giờ 4 đứa đều khôn lớn cả".
Mồ côi từ tấm bé
Cùng với những người phụ nữ mất chồng là nhiều đứa trẻ mất cha. Thương nhất là những cháu bé phải chịu cảnh mồ côi từ ngay khi còn trong bụng mẹ. Chị Dương Thị Thu An (21 tuổi, ngụ xã An Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) mới mang thai được 7 tháng thì chồng là Nguyễn Văn Cường (25 tuổi) đi Hoàng Sa lặn biển và bỏ mình ở đó. Nuốt nước mắt vào lòng, chị An mang nặng đẻ đau một mình. Giờ bé Nguyễn Duy Khang, con trai chị, đã biết đi chập chững.
Cùng hoàn cảnh là bé Nguyễn Thị Bích Vy (5 tuổi, ngụ xã An Hải). Lúc Vy mới tượng hình trong bụng mẹ được 2 tháng thì cha cháu chết ngạt dưới biển khi đang lặn bắt hải sâm ở Hoàng Sa. Ngày anh Thành mất đã để lại cho chị Hạnh số nợ 20 triệu đồng. Tính đến nay đã 5 năm, dù đã làm việc cật lực nhưng chị Hạnh chỉ đủ tiền nuôi con chứ chưa trả hết được nợ.
3 năm, 46 người bỏ mạng ngoài khơi Theo báo cáo từ Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa, tính từ năm 2011 đến tháng 10/2013, toàn tỉnh Thanh Hóa xảy ra 88 vụ tai nạn trên biển khiến 46 người chết, 56 người bị thương, 56 tàu thuyền bị chìm, thiệt hại gần 20 tỉ đồng. Các vụ trên xảy ra ở 6 huyện, thị ven biển nhưng nhiều nhất là 2 huyện Hậu Lộc và Tĩnh Gia. Hiện toàn tỉnh Thanh Hóa có 5.866 tàu thuyền với 28.533 lao động. Tàu cá ở đây vẫn còn rất lạc hậu, công suất nhỏ; số tàu cá 1.000 CV trở lên chỉ đếm trên đầu ngón tay. T.Minh
Theo Tuấn Minh - Đức Ngọc - Tử Trực
Trở về sau 20 năm "mất tích" trên biển Sáng 8/12, người dân xóm Hải Hòa, thôn Thanh Thủy (xã Bình Hải, Bình Sơn, Quảng Ngãi) đổ đến nhà ông Thảo để thấy tận mắt một ngư dân rơi xuống biển mất tích từ 20 năm trước. Chết đi sống lại Ông Thảo xuất ngũ trở về địa phương ngày 20/10/1984. Và không ai ngờ, sau đó ông đã gửi tiếp cuộc...