Ký ức hào hùng của người cựu binh pháo cao xạ bảo vệ bầu trời Điện Biên Phủ
Tác giả Bernard B Fall đã gọi cuộc chiến trên bầu trời Điện Biên là “cuộc tàn sát máy bay”.
Kéo pháo vào chiến trường Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)
“Phòng không cao xạ của ta/ Lần đầu xuất trận như là thần tiên/ Đoàn Ba sáu bảy không quên/ Vẫn còn mãi mãi trong thiên sử vàng…”. Những câu thơ giản dị và khí thế vẫn luôn được ông Phạm Đức Cư (xã Thanh Xương, TP. Điện Biên Phủ), cựu chiến binh Điện Biên Phủ cất lên mỗi khi gặp lại đồng đội cũ, hay gặp gỡ những nhà báo, nhà văn. Ký ức hào hùng của một thời “Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo” mà ông kể lại đã mang đến cho tôi nhiều cảm xúc cùng sự tri ân, tự hào về tinh thần chiến đấu kiên cường của những người lính Điện Biên.
Chiến thắng Điện Biên Phủ dù đã qua đi 60 năm, những ký ức về 56 ngày đêm gian khổ “mưa dầm cơm vắt”, nhưng oai hùng, dường như vẫn còn hiện hữu trước mắt người lính già này.
Ông Phạm Đức Cư là tham mưu tác chiến của Tiểu đoàn 394, Trung đoàn Pháo cao xạ 367, Binh chủng Pháo binh. 60 năm trước, tiểu đoàn 394 và 383 là 2 tiểu đoàn được lệnh kéo pháo vào bên trong lòng chảo Mường Thanh, tiếp cận và khống chế địch trên vùng trời Điện Biên. Đây là lần đầu tiên ra trận của những người lính cao xạ sau khi Binh chủng Pháo binh được thành lập ngày 1/4/1953.
Sự xuất hiện của pháo cao xạ tại chiến trường Điện Biên đã thực sự giáng cho quân đội thực dân Pháp một đòn bất ngờ và đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của chiến dịch này.
Tuy mới lần đầu tiên ra trận, thiếu thốn trăm bề, nhưng bằng ý chí, nghị lực sắt đá, cùng phương pháp tác chiến linh hoạt, những người lính pháo binh đã khiến những “tháp pháo” khổng lồ trên không tan xác, là nỗi khiếp đảm cho không lực Pháp.
Nhớ lại những ngày tháng hào hùng 60 năm trước, ông Cư như sống lại thời trai trẻ
Việc sống còn của quân đội Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ phụ thuộc phần nhiều vào không quân. Khi lực lượng này bị vô hiệu hóa thì con đường dẫn đến diệt vong khó tránh khỏi.
Video đang HOT
Hơn hẳn đối phương một binh chủng (không quân), quân đội Pháp tự tin sẽ nghiền nát được trận địa của quân đội Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ bằng những “pháo đài bay”. Nhưng từ lúc bắt đầu chiến dịch, thay vì nghiền nát quân đội non trẻ Việt Nam, thì công việc chính của không quân Pháp lại là đếm xác máy bay bị bắn rơi hàng ngày.
Trong cuốn “Điện Biên Phủ: Một góc địa ngục”, tác giả Bernard B Fall đã gọi cuộc chiến trên bầu trời Điện Biên là “cuộc tàn sát máy bay”. Minh chứng rõ nhất là con số 62 máy bay bị bắn rơi, 186 máy bay bị trúng đạn dẫn đến hư hỏng nặng.
Nhớ lại những ngày tháng hào hùng 60 năm trước, ông Phạm Đức Cư hào hứng như sống dậy một thời trai trẻ.
Ông cho biết, lúc đó đơn vị mới thành lập, pháo mới tiếp nhận, bao gồm 2 tiểu đoàn trang bị 24 khẩu pháo cao xạ M1939 – 37mm do Liên Xô sản xuất. Ông Cư cùng đồng đội được cử sang Trung Quốc học chiến thuật, kỹ thuật sử dụng pháo cao xạ. Tháng 11/1953, Đảng ủy Trung đoàn quyết định đưa hai tiểu đoàn huấn luyện xuất sắc về nước tham gia chiến dịch Trần Đình (mật danh của chiến dịch Điện Biên Phủ). Tháng 12/1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị cho Trung đoàn pháo cao xạ 367 tham gia chiến dịch.
Trước đó, quân Pháp đã nhảy dù, xây dựng lòng chảo Điện Biên Phủ thành 3 cụm cứ điểm chính là phân khu bắc gồm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo; phân khu trung tâm ở cánh đồng Mường Thanh và phân khu Hồng Cúm. Chúng huênh hoang rải truyền đơn thách đấu.
Các chiến sỹ pháo cao xạ được lệnh hành quân lên Tây Bắc. Phải rất vất vả và gian khổ quân ta mới kéo được 24 khẩu pháo, mỗi khẩu nặng 2,4 tấn lên Điện Biên. Để kéo được một khẩu pháo, cần tới 80-100 người. Việc kéo pháo đều phải bằng sức người, vì không có đường kéo bằng xe. Đường rất hẹp, dốc, có những nơi độ dốc tới 45-50 độ, nên cực kỳ gian khổ.
Từ điểm tập kết Nà Nhạn (cách tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 13km), 2 tiểu đoàn được lệnh kéo vào lòng chảo Mường Thanh xây dựng trận địa.
Khác với pháo đánh mục tiêu mặt đất (xây dựng trận địa trên đồi cao ở Điên Biên), pháo cao xạ phải lập trận địa ở dưới thấp và bằng phẳng (vì bắn mục tiêu trên không).
Có hai nhiệm vụ chính của các đơn vị pháo cao xạ trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ cho bộ binh ta bao vây, tiêu diệt các cứ điểm, thì pháo cao xạ được lệnh để tiêu diệt càng nhiều máy bay địch càng tốt.
Hai tiểu đoàn kéo pháo vào từ Nà Nhạn, sau đó phát triển cắt ngang Hồng Cúm, vòng vây khép kín dần. Những khẩu pháo cao xạ được bố trí như hình cánh cung, 2 tiểu đoàn ở phía đông, tây gom lấy lòng chảo Điện Biên, ôm lấy chiến trường, dựng thành lưới lửa phòng không.
Ông Cư cũng như các đồng đội phải liên tục cơ động, xây dựng trận địa. Hôm nay ở trận địa này mai ở trận địa khác.
Trong cuốn “Điện Biên Phủ chuyện kể với bạn bè”, nhà nghiên cứu quân sự, Đại tá Trần Trọng Trung viết: “Dựa theo sách vở đã học, anh em báo cáo với cấp trên: trong 8 điều kiện cần có để chọn trận địa cao xạ thì ở Điện Biên này thiếu mất 7, chỉ còn một điều kiện là “không gần đường dây điện cao thế!”.
60 năm trước, những ụ pháo cao xạ, trận địa pháo đơn sơ đã ra đời trong những điều kiện hết sức ngặt nghèo như thế. Tuy nhiên, cũng kể từ đấy, bá chủ mới trên bầu trời Điện Biên Phủ đã xuất hiện, là nỗi kinh hoàng của máy bay Pháp, đồng thời bóp nghẹt yết hầu của “con nhím Điện Biên Phủ”.
Theo Xahoi
Chiến dịch Điện Biên Phủ qua hồi ức vị chỉ huy trinh sát
Trong ký ức của Đại tá Nguyễn Việt, nguyên Trưởng phòng trinh sát, Cục quân báo, đời lính gian khổ nhưng đáng nhớ nhất vẫn là tình đồng chí, anh em nơi chiến hào.
Ông Nguyễn Việt hào hứng kể về những kỷ niệm oai hùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Năm 1945, theo tiếng gọi của tổ quốc, cậu học sinh trường Bưởi (Hà Nội) Nguyễn Việt gia nhập du kích. Chinh chiến gan dạ trong nhiều trận đánh ở Bắc Giang, Hải Dương..., Việt nhanh chóng trở thành chính trị viên tiểu đoàn, được cử đi học nghiệp vụ trinh sát rồi được đề bạt Trưởng phòng trinh sát ban 2, Cục quân báo.
Từ tháng 1/1954, đơn vị của ông đã có mặt tại Điện Biên để theo dõi động thái của quân Pháp. Ban ngày, các chiến sỹ trong đơn vị túa đi tìm hiểu địch từ đài quan sát, mật phục "bắt lưỡi" (bắt tù binh) về khai thác hoặc nghe thông tin của đối phương qua vô tuyến điện. Khi màn đêm buông xuống, họ tìm cách lọt qua hàng rào kẽm gai dày đặc mìn để trực tiếp tìm hiểu địa hình, công tác bố phòng của địch.
Khi ấy, ông Việt được giao chỉ huy 2 đại đội trinh sát. Hàng ngày, ngoài việc tổng hợp tin tức, trinh sát thực địa, bắt và hỏi cung tù binh, với vốn tiếng Pháp kha khá của mình, ông trực tiếp ngồi nghe ngóng tình hình địch qua sóng vô tuyến.
Ông kể rằng, nhờ những lần ốp chặt tổ hợp vào tai như thế, trinh sát của ta đã nắm được rất nhiềutin tức có giá trị.
Ngày 22/1/1954, quân báo thu được tin địch đã biết kế hoạch nổ súng đánh Điện Biên Phủ vào ngày 25/1 của ta. Thông tin này khiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải 2 lần trực tiếp xuống xác minh. Ngày hôm sau, lệnh chuyển hướng đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc, tiến chắc được ban ra.
Qua đài quan sát cách đồi A1 hơn 1km, trinh sát nắm được tình hình đổ quân, số lượng máy bay lên xuống trong ngày, các điểm đóng quân của địch ở Mường Thanh, dãy đồi cao điểm phía Đông sông Nậm Rốn: A, C, D, Him Lam, Hồng Cúm... từ đó đánh dấu chính xác vị trí của quân Pháp trên bản đồ.
Trước đó ngày 24/12/1953, một tổ trinh sát Việt Minh thu được một chiếc thùng do máy bay Pháp thả xuống, bên trong chứa toàn tài liệu quý. Với 25 bản đồ tỷ lệ 1/25.000; 32 tấm không ảnh của toàn vùng lòng chảo Điện Biên, chúng ta đã giải quyết được bài toán khó cho chiến dịch là chưa có bản đồ biên độ, địa hình chính xác.
Để tiếp cận địch an toàn, bộ đội ta thường đi dưới các giao thông hào, tuy nhiên với lính trinh sát, không phải lúc nào hoạt động trong hào cũng tốt. Những cơn mưa trắng trời ở Điện Biên khiến lối đi ấy ngập trong bùn đất. Lính trinh sát chọn cách di chuyển nhanh trên mặt đất để đến mục tiêu trong thời gian ngắn nhất.
Người lính trinh sát năm xưa giờ đã tuổi 90. Ông trầm giọng bảo, đời lính trinh sát nguy hiểm và lắm gian lao. Có những lần ông nằm địch hậu ở Nà Sản (1952), phải nhiều ngày phải ăn bí đỏ thay cơm, đốt cỏ day có vị mặn ăn thay muối song vẫn thấy may vì nhịn đói triền miên không phải là hiếm.
Mắt ánh lên vẻ tinh nhanh, ông bảo lính trinh sát vất vả, luôn phải đi đầu đối mặt trực tiếp với kẻ địch nhưng cũng là những người giỏi xoay sở, giỏi kiếm đồ ăn, đa tài. "Tố Hữu viết: "56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt/ Máu trộn bùn non..." nhưng chúng tôi ở Điện Biên đến hơn 150 ngày mà chịu triền miên cảnh như thế thì anh em chết sớm. Thế nên dù của địch cướp về, chúng tôi dùng để lát nền hầm hay tự cắt, may thành chăn, áo trông đẹp đẽ lắm. Dây dù thì anh em đan thành võng. Thời chiến mà được nằm võng trong hầm sạch sẽ, khang trang thì "sang" quá còn gì", ông Việt cười kể.
Nỗi day dứt lớn nhất của ông Việt trong chiến dịch Điện Biên Phủ là không tìm lại được hài cốt của người đội, anh hùng Nguyễn Ngọc Bảo hi sinh tại đồi A1 dù trước đó ông đã chôn cất và đánh dấu vị trí ngôi mộ. Ảnh: Quỳnh Trang.
Ông hóm hỉnh kể về những bữa ăn sang bất ngờ khi lính trinh sát thu được những thùng đồ tiếp tế mà địch thả dù xuống, trong đó chứa đầy thực phẩm, rượu, thuốc lá... Rồi những đêm anh em nằm kể chuyện cho nhau nghe chuyện nhà, chuyện tình, trêu đùa tếu táo. "Đó là những ký ức đẹp trong cuộc đời quân ngũ", người lính già năm xưa mỉm cười nói.
1h chiều 7/5/1954, sau bao ngày đêm chiến đấu ác liệt, từ đài quan sát trên đồi A1, ông Việt thấy thấp thoáng những lá cờ trắng xuất hiện ở phía chiến hào của địch. Về chiều, cờ trắng ngày càng nhiều, địch lũ lượt kéo nhau ra hàng. "Đó là một buổi chiều hoàng hôn hùng vĩ. Cờ trắng rợp khắp nơi, địch đi hàng dài cả km rất trật tự", ông Việt kể và suýt xoa mãi vì tiếc không có chiếc máy ảnh nào để chụp lại khoảnh khắc lịch sử hào hùng này của dân tộc.
Sau phút giây hào sáng kể lại chiều chiến thắng, vị trưởng phòng trinh sát bỗng chùng giọng nhớ đến người đồng đội Nguyễn Ngọc Bảo. "Anh Bảo hi sinh khi chỉ huy tổ trinh sát tại đồi A1. Anh được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân nhưng đến giờ vẫn chưa tìm thấy hài cốt", ông Việt ngậm ngùi. Không buồn sao được khi chính ông và đồng đội đã chôn cất, đánh dấu mộ chí của ông Bảo. Nhưng bom đạn ác liệt, 60 năm đã trôi qua là chừng ấy thời gian mọi nỗ lực tìm kiếm đều trong vô vọng. Thân xác người đồng đội anh hùng của những cựu lính trinh sát quân báo vẫn nằm đâu đó, hòa cùng đất trời, cỏ cây Điện Biên...
Theo Xahoi
Người chia sẻ quyết định quan trọng nhất với tướng Giáp tại Điện Biên Phủ Nhắc đến chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp năm châu đều nghĩ đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Một vị tướng khác góp phần giúp Đại tướng quyết đoán chuyển phương án tác chiến sang "đánh chắc, tiến chắc" là tướng Phạm Kiệt. Chiến thắng Điện Biên Phủ gắn liền với hai vị tướng ưu tú của dân tộc. Mở màn chiến dịch...