Kỳ nhân thêu còn lại của triều Nguyễn
Cũng là đường kim mũi chỉ nhưng qua bàn tay “điêu luyện” đã để lại cho mai sau những tác phẩm “kiệt xuất”. Ở tuổi xưa nay hiếm, cụ Kinh vẫn tận tâm, tận lực truyền nghề cho con cháu.
Bước ngoặt…
Mảnh đất Cố đô không chỉ nổi tiếng về vẻ đẹp cổ kính, nơi đây còn là cái nôi hình thành nên những con người tài hoa, uyên bác…
Cụ Lê Văn Kinh sinh ra trong gia đình thuộc dòng dõi vua chúa, được thừa hưởng “gen” về nghệ thuật, là cháu ngoại của Tham tri Bộ Lễ Nguyễn Văn Giáo (hiệu Chí Thành – một vị quan triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định) cháu nội của cụ Lê Chí Thành, một thợ thêu giỏi ở Quất Động được triều Nguyễn triệu về kinh đô Phú Xuân trong một cuộc chiêu mộ thợ giỏi khắp cả nước thân sinh là Lê Văn Hỡi, một thợ thêu tài hoa trong triều nhà Nguyễn (từng được triều đình nhà Nguyễn phong tặng Hàn Lâm viện).
Nghệ nhân dân gian Lê Văn Kinh
Lên 5 tuổi, cụ Kinh đã loay hoay, tìm tòi, học lỏm khi bố đang làm,… những đường vẽ tuy thô ráp nhưng đã toát lên cái “hồn” của bức tranh. Nhờ kiên trì, đam mê, chịu khó học hỏi cộng với “chất” nghệ thuật ăn sâu trong máu, 10 tuổi, cụ Kinh đã cho ra đời hàng chục tác phẩm thêu khiến cho nhiều tay thêu “lão luyện” xứ Huế thời bấy giờ phải trầm trồ thán phục. Cụ được xưng danh là “thần đồng” đất Việt, với các tác phẩm nổi tiếng như: Bức tranh Tùng hạc (hạc đậu trên cành tùng) Long – Phụng, cho đến cảnh chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền Ngọ Môn, lăng tẩm…
Cụ Kinh chia sẻ: “Cho dù có năng khiếu nhưng mới bước vào nghề thêu tôi gặp không ít khó khăn, bàn tay cứng đơ, kim khâu và vải luôn bám ríu vào nhau, kim đâm nát cả ngón tay,… Nhưng đây là nghề truyền thống được lưu truyền 3 đời, tôi không thể để nó mai một. Trước khi bố tôi nhắm mắt đã dặn dò rất cẩn thận, thời cuộc có thay đổi con cũng phải giữ lấy nghề”.
Năm 1956, với bức thêu chân dung Trần Bình Trọng (danh tướng nhà Trần) trên chất liệu lụa tơ tằm, đã được vua Bảo Đại đưa đi triển lãm tại New York. Đây chính là thời điểm đánh dấu “mốc son” chói lọi con đường thêu của cụ Kinh, tiếng tăm vang xa được bạn bè thế giới biết đến.
Video đang HOT
Vốn kiến thức uyên thâm, được chắt lọc tinh túy là cụ Kinh đã biết kết hợp giữa thêu truyền thống và hiện đại. Bởi thế, những tác phẩm của cụ hội tụ nên nét độc đáo trong đó có “cổ và kim”. Mỗi tác phẩm đều ẩn chứa vẻ đẹp trang trọng, đồng thời thể hiện nét uy nghi của cung đình. Cụ Kinh rất tự hào đã kế thừa gia sản mà đời ông, đời bố để lại là hiệu thêu Đức Thành nằm trên đường Gia Long (nay là số 82, đường Phan Đăng Lưu, TP Huế). Cụ Kinh chia sẻ: “Hiệu thêu này không chỉ là tài sản mà là gia bảo mang dòng dõi vua chúa. Bởi thế, tôi phải gìn giữ lưu truyền lại cho con cháu”.
Một lần nữa, cụ Kinh bứt phá với bộ tranh thêu bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền Sư bằng 16 thứ tiếng: Anh, Pháp, Đức, Nga, Italy, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,… Ròng rã trong 10 năm, cụ Kinh tự tay viết, vẽ, dịch và thêu để trở thành một tác phẩm “kiệt xuất”. Cụ Kinh cho biết: “Trong 10 năm đó tôi miệt mài, khổ luyện bao nhiêu công sức, tiền của đều đổ vào “công trình thế kỷ” này. Ước nguyện của tôi đã thành hiện thực”. Cụ Kinh bật mí: “Trong mỗi bức tranh của một thứ tiếng đều được tôi sáng tạo đặc biệt, màu của chỉ gắn liền với màu lá cờ của từng nước, lá cờ có bao nhiêu màu thì tương ứng với từng ấy màu sợi chỉ được đan lồng tinh xảo…”.
Bài thơ “Cáo tật thị chúng” được thêu 16 ngôn ngữ của Nghệ nhân dân gian Lê Văn Kinh được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác nhận kỷ lục Guinness Việt Nam năm 2011.
Bức tranh thêu “Chiều Ngọ Môn” Huế.
Tâm niệm cuối đời
Nghệ nhân Lê Văn Kinh bước sang tuổi “xưa nay hiếm” nhưng cụ vẫn miệt mài truyền dạy cho con cháu nghề thêu gia truyền…
Cụ Kinh Tâm sự: “Tôi đã dành trọn cuộc đời để vun đắp, gìn giữ nghề thêu mà ông cha truyền lại. Sức khỏe tôi ngày một yếu đi, điều tôi băn khoăn lo lắng nhất là sợ nghề thêu mai một, bởi giới trẻ hôm nay không còn mặn mà với nghề này nữa. Trong khi đó nghề thêu đòi hỏi phải có tâm và cần mẫn như thế tác phẩm mới có giá trị”.
Để tỏ lòng tri ân đến cuội nguồn dân tộc, trong thời gian sắp tới cụ Kinh sẽ thực hiện “công trình” mang tầm cỡ quốc gia. Ông sẽ đi đến các vùng, miền của đất nước thu thập những bằng chứng, sau đó mỗi vùng miền sẽ thêu thành một bức tranh. Đây là tâm nguyện cuối đời của cụ Kinh trước khi nhắm mắt.
“Cái độc đáo ở từng bức tranh là phải nói lên được cái riêng biệt của từng vùng, miền. Chẳng hạn ở Huế là cầu Trường Tiền, ở Nghệ An là quê Bác. ở Hà Nội là Lăng Bác, ở TP HCM là Bến Nhà Rồng,…”, cụ Kinh bật mí.
Với công lao đó, năm 2003, cụ Kinh vinh dự được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian vì đã “có công gìn giữ giá trị tinh hoa trong văn hóa của dân tộc Việt Nam”. Năm 2005, cụ được Bộ NN&PTNT trao tặng Giấy khen và Bằng khen của Ban chấp hành Hiệp hội Làng nghệ Việt Nam. Được tỉnh Thừa Thiên – Huế trao tặng danh hiệu Nghệ nhân Làng nghề Thừa Thiên – Huế và được phong danh hiệu Kỷ lục gia.
Theo Dantri
Thiếu đất, dân bỏ làng tái định cư
5 năm trước, 2.123 hộ dân H.Tương Dương, Nghệ An bỏ nhà, rời quê để nhường đất cho thủy điện Bản Vẽ. Sau 5 năm định cư tại nơi ở mới huyện Thanh Chương, người dân nói họ thất vọng vì cuộc sống không như lời hứa ban đầu của chính quyền.
Trở lại khu tái định cư (TĐC) ở Thanh Chương, những khu vườn nay đã rợp bóng cây. Cuộc sống có vẻ khởi sắc hơn khi những tiệm tạp hóa đã mọc lên khá nhiều bên đường nhưng bên trong những căn nhà trông khá khang trang ấy vẫn là một cuộc vật lộn căng thẳng để sinh tồn của hàng ngàn người dân...
Ông Lương Văn Nguyên, bản Kim Hồng, xã Ngọc Lâm: "Nhà tôi 4 người, được chia gần 10.000 m2 đất rừng cằn cỗi thì biết làm thế nào cho đủ ăn?" - Ảnh: Khánh Hoan
Khó đủ bề
Anh Vi Văn Bình ngồi bó gối trước bậu cửa. Nỗi lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt của người đứng đầu gia đình 5 miệng ăn này khi mấy chục cân gạo cứu đói mùa giáp hạt nhà nước cấp từ tháng trước đã sắp hết. Mấy bữa nay không ai thuê anh đi chặt cây.
12 tháng sống bằng gạo trợ cấp kể từ ngày đến nơi ở mới này đã qua đi rất nhanh, 5 miệng ăn sau đó chỉ trông vào 10.000 m2 đất rừng được chia. "Nhà mình trồng sắn, trồng lúa rồi trồng cả cây keo như hướng dẫn của cán bộ trên huyện, rứa mà vẫn đói", anh Bình nói. Đói thì đầu gối phải bò, anh đi làm thuê chặt và lóc vỏ cây keo, mỗi ngày kiếm được 100.000 đồng. Nhưng ở vùng này không phải lúc nào muốn đi làm thuê cũng được.
Anh Bình bảo về đây đường sá thuận lợi, đi lại dễ dàng hơn, nhưng cái bụng thì đói hơn. Nhắc đến quê cũ, nơi bây giờ là lòng hồ thủy điện mênh mông nước, anh luyến tiếc: "Ở trên đó, nhà ta nhiều ruộng lắm. Lúa gạo không ăn hết đâu. Thức ăn thì trong rừng, dưới suối nhiều lắm, không bao giờ lo đói, không phải như ở đây, cái chi cũng phải đi mua mà tiền thì không có".
Căn nhà của anh Bình đang ở do chủ dự án xây dựng rồi bàn giao. Nhà xây đổ sàn bê tông, kiểu như nhà sàn truyền thống của người Thái. Sau 5 năm, đến nay gác trên căn nhà đã dột nát, những đường hoành bằng gỗ đã mục chân, mái ngói oặt xuống. Anh Bình không dám sống trên gác mà phải xuống phía dưới sàn vì tai họa có thể sập xuống bất cứ lúc nào.
"Cả xã có gần 400 căn nhà như thế này thì đều đã xuống cấp. Chúng tôi đã báo cáo lên huyện và ban quản lý dự án thủy điện để họ có phương án sửa chữa nhà cho dân nhưng chưa thấy họ trả lời", Phó chủ tịch UBND xã Ngọc Lâm, Lô Huy Hùng nói.
Bản có hơn nửa số hộ bỏ đi
Một cuộc di dân ngược trở lại lòng hồ thủy điện Bản Vẽ đang diễn ra tại khu TĐC Thanh Chương. Báo cáo của UBND huyện Thanh Chương cho thấy đến nay đã có 145 hộ dân quay ngược về quê cũ để sinh sống và làm ăn. Người dân bỏ vùng tái định cư nhiều nhất là tại bản Kim Hồng của xã Ngọc Lâm và bản Chà Coóng 2 xã Thanh Sơn. Đây là những hộ dân cuối cùng đến vùng tái định cư này, vào năm 2009.
Trưởng bản Kim Hồng, ông Quang Diễn Hoàn, thở dài nói, bản có 102 hộ thì 34 hộ đã bán nhà bỏ đi, 27 hộ khóa cửa quay về quê cũ làm rẫy, chỉ còn 41 hộ dân bám trụ ở lại. Vì di dời muộn nhất nên đất sản xuất của dân bản này bị những người ở các bản khác đến trước "mượn" để sản xuất. Việc đòi đất rất phức tạp, mất nhiều công sức của chính quyền địa phương và chủ dự án thủy điện, nhưng kết quả vẫn chưa như mong muốn. Kết quả là sau 3 năm về đây, nhiều hộ dân vẫn chưa được chia đất để làm ăn. "Cực chẳng đã mà phải bán nhà về lại chứ ở trên quê cũ đất làm ăn đã chìm xuống dưới lòng hồ thủy điện hết rồi. Có người làm nhà mất vài ba chục triệu nhưng khi bán cũng chỉ được dăm triệu thôi, vừa đủ tiền thuê xe chở đồ đạc về quê. Về trên đó phải tìm những nơi nước chưa ngập, dựng lều lán mà làm ăn. Ở đây đất đai không có, nước uống thì mùa khô khan hiếm, đói ăn nên dân phải đi thôi", ông Hoàn thở dài, rồi lắc đầu: "Trước khi đi, chính quyền, chủ dự án thủy điện nói đến đây bà con sẽ được sống sướng hơn, nhưng 3 năm rồi, sướng mô không thấy chỉ thấy đói thôi".
Chưa có giải pháp căn cơ
Ông Phan Đình Hà, Phó chủ tịch UBND H.Thanh Chương, thừa nhận nguyên nhân người dân bỏ vùng TĐC quay về quê cũ là do cơ chế đất đai. Sau khi chuyển về khu TĐC, người dân phải chờ khá lâu để được giao đất sản xuất quỹ đất sản xuất ít hơn so với nơi ở cũ ruộng nước không đảm bảo theo quy định của dự án nên cuộc sống của họ gặp khó khăn. Mặt khác, vùng TĐC Thanh Chương chủ yếu là dân tộc Thái và Khơ Mú, họ chưa quen với tập quán canh tác mới nên càng khó khăn hơn.
Để "níu" người dân ở lại khu TĐC, H.Thanh Chương đang hướng dẫn cho họ cách canh tác, cách trồng sắn, rau màu, chè công nghiệp, cây rễ hương... đồng thời hỗ trợ điện, y tế, sách vở, chăn nuôi, lương thực. UBND H.Thanh Chương cũng đã đề nghị tỉnh Nghệ An hỗ trợ gạo cứu đói cho dân, kiến nghị Chính phủ thêm định mức hỗ trợ lương thực cho người dân ở đây từ 12 tháng lên 36 tháng kể từ ngày về khu TĐC. Nhưng ông Hà cũng thừa nhận việc cứu đói không phải là giải pháp căn cơ để người dân TĐC ổn định cuộc sống lâu dài nếu như đất sản xuất vẫn chỉ bó hẹp mỗi hộ chưa đầy 1 ha.
Ông Lô Huy Hùng, Phó chủ tịch UBND xã Ngọc Lâm, cho biết diện tích đất sản xuất ở đây bình quân chỉ đạt 2.500 m2/người. Chừng đó đất rừng thì khác nào bắt dân múa tay trong bị. Đất hầu hết lại nằm trên các sườn dốc, cằn cỗi, xa nguồn nước. Hiện cả xã có gần 10 ha lúa nước trồng ven các con suối, còn lại phần lớn diện tích đất trên đồi đã được phủ xanh bằng cây sắn và keo lai. Còn dự án trồng chè công nghiệp thì chỉ mới nghe chủ trương trên tỉnh, chưa thấy. "Chúng tôi kiến nghị nhà nước nên có chính sách cấp đất cho người dân TĐC để dân ổn định cuộc sống lâu dài, chứ không lại đem con bỏ chợ. Nếu chỉ 2.500 m2/người thì rất khó sống. Chừng đó đất chỉ làm trong mấy ngày là xong. Xong rồi ngồi chơi quanh năm. Cái bụng đói thì người dân bắt buộc phải bỏ về quê cũ hoặc phải bán nhà bỏ đi nơi khác thôi", ông Hùng nói.
Theo TNO
Giận vì trùng tang nên thiêu sống 11 người trong họ Hôm đó, tôi chỉ muốn chôn cất bà nội vào một giờ khác để tránh trùng tang với giờ mất của con trai tôi. Tôi sợ tai họa ập xuống'... Bị can Cường tại trại giam Phú Thọ Sau khi ra tay đốt cháy cả mẹ đẻ và những trong họ tộc, giờ đây ngồi trong trại giam, sát nhân Phạm Việt cường...