Kỳ lạ vùng đất nghiện ăn… cào cào
Từ những con cào cào béo ngậy, người dân ở xã Nghi Kim, Nghi Lộc, Nghệ An đã chế biến thành món ăn dân giã có truyền thống lâu đời và trịnh trọng gọi nó là món “tôm bay”. Rượu ở xã Nghi Ân và “tôm bay” Nghi Kim gặp nhau thì khó có thể cưỡng lại được.
Món ăn truyền thống
Theo những cao niên trong làng kể lại thì từ khi lớn lên họ đã thấy món “tôm bay” có mặt trên mâm cơm của các gia đình. Tại xã Nghi Kim, món “tôm bay” có mặt trong bữa ăn của mỗi gia đình và nó trở thành một món ăn truyền thống mà những ai đi xa quê đều nhớ.
Theo cụ Nguyễn Thị Kỳ (84 tuổi) trú tại xóm 11 cho biết: “Người dân gọi “tĩm bay” bởi cào cào chế biến thành thức ăn cũng ngon như tôm vậy. Khi tui lớn lên đã thấy dân làng rủ nhau đi bắt cào cào về làm thức ăn. Trước đây, người ta thường ăn cào cào đồng. Sau này cào cào đồng ít dần nên người ta chuyển sang bắt cào cào lá tre ăn. Hiện giờ, chuộng nhất vẫn là cào cào xanh. Chúng thường trú tại các rừng phi lao dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, mùa săn cào cào cũng chỉ rầm rộ vào các tháng 6, 7, 8 âm lịch”.
Mùa săn cào cào chỉ rầm rộ vào các tháng 6,7,8 âm lịch
Cụ Kỳ giải thích, người ta thường săn vào những tháng này bởi cào cào đang mang trứng. Khi đó, sẽ không có máu, nên không bị tanh (chất lỏng màu xanh thường chảy ra ở miệng cào cào khi bị bắt). Như thế cào cào mới ngon, bùi và béo. Mùa săn cào cào cũng kết thúc khi chúng đẻ trứng và chết.
Cũng theo cụ Kỳ nhận định, nguyên nhân người dân ở vùng này có truyền thống ăn cào cào như vậy có thể vì trước đây đói kém nên người ta bắt về rang lên ăn thấy thơm ngon nên sau này trở thành thói quen và cả làng thi nhau ăn.
Còn anh Trần Văn Nhật (SN 1969) thì chia sẻ, khi lên khoảng 8 tuổi thường đi chăn bò cả ngày ở các cánh đồng xa nên phải đùm cơm theo để ăn. Sau đó hái sim, đuổi bắt cào cào nướng ăn. Khi trở về trên tay mỗi đứa trẻ đều có một túi cào cào đem về nấu ăn. Ông Nguyễn Quốc Vinh (70 tuổi), một người dân vốn từ nơi khác đến định cư về đây cho biết:
“Quê tôi ở huyện Thanh Chương, năm 1988 thì mua đất và chuyển gia đình về sinh sống tại đây. Trong một lần gặp ông bạn cũ mời vào nhà chơi và ăn cơm. Khi chủ nhà mang ra một đĩa “tôm bay”, lúc đầu tôi thật không dám ăn vì sợ quá. Nhưng ông bạn cứ nằng nặc mời thử cho bằng được nên cầm lên ăn. Bây giờ thì đã thành nghiện, đến giờ ăn cơm hay lai rai với bạn một chút mà không có món “tôm bay” là thấy thiếu thiếu rồi”.
Gặp thợ săn cào cào kỳ cựu
Dụng cụ để săn cào cào rất đơn giản. Trước đây, vì bắt cào cào ở đồng trống nên người ta thường dùng vợt để bắt. Đi đến đâu, cào cào bay lên đến đó, chỉ việc dùng vợt chao lấy. Mỗi lần như thế có đến hàng chục con mắc vợt. Thế nhưng, hiện nay người dân không còn thích ăn cào cào đó nữa mà chuyển sang cào cào xanh.
Loại này có thân người to bằng ngón chân cái. Chúng thường trú ở các rừng phi lao men theo các bờ biển là nhiều nhất. Có khi mỗi nhành phi lao có đến hàng chục con trú ẩn tại đó. Dụng cụ để bắt là dùng một sào tre hoặc nứa dài 4-5m, đầu kia nối với một móc sắt, vài cái bao tải có đục lỗ thông hơi để cào cào khỏi bị ngạt mà chết.
Có nhà dùng hẳn can nhựa loại 5lít, 10 lít đục lỗ thông hơi để tiện cho việc bắt cào cào. Mỗi khi gặp ổ cào cào nào, chỉ cần dùng móc sắt lắc mạnh cho cào cào rớt xuống rồi chụp nhanh những con rơi xuống. Loài cào cào rất tinh ranh, nên khi rớt xuống nếu không nhanh tay chúng sẽ bay mất.
Em Trần Xuân Bách (19 tuổi) một trong những thợ săn cào cào cừ khôi của xóm 11 cho biết, trong xã này bọn em là người đi bắt cào cào nhiều nhất. Trước đây, bọn em thường bắt ở những xã gần đây. Sau khi nghe tin, tại Hà Tĩnh có hiện tượng cào cào phá hoại mùa màng nên cả làng ồ ạt rủ nhau vào đó để bắt.
Video đang HOT
Đi cả ngày, có khi được vài chục kg, có khi được 40-50kg. Cào cào bán sỉ cũng được 20-30 ngàn đồng/kg, nếu bán lẻ cũng được 40-50 ngàn đồng/kg. Đó là thời điểm bắt được nhiều, còn những năm hiếm cào cào thì lên đến 80-100 ngàn/kg.
Theo Bách, nhìn thì đơn giản nhưng để săn được một kg cào cào không phải là chuyện dễ dàng. Thợ săn cào cào phải biết chịu khó và phải hết sức khéo léo. Đặc biệt là phải nhanh nhẹn thì mới bắt được nhiều. Chìa bàn tay với nhiều vết xước, Bách cho hay, những vết xước này là do chân cào cào khi bị tóm nên búng càng loạn xạ. Săn cào cào cũng có thể gặp nhiều rủi ro. Bách kể, trong một lần móc được nhành phi lao nặng trĩu tưởng là nhiều cào cào ở đấy, ai ngờ từ trên cao, một chú rắn lao xuống, may lúc đó tránh kịp.
Từ sáng sớm, đi dọc con đường dẫn vào xã Nghi Kim đã thấy bà con tấp nập, mỗi hàng quán đều thấy một túm cào cào để bán. Để mua được cào cào về ăn phải đi sớm mới có, đi trưa chợ là coi như hôm đó về không. Điều đặc biệt, chỉ có người dân xã Nghi Kim mới ăn món “tôm bay”. Người dân ở đây xem món “tôm bay” là đặc sản mỗi khi có khách đến nhà chơi.
Bí quyết chế biến món truyền thống
Cào cào được bày bán khắp các ngả đường của xã Nghi Kim, Nghi Lộc, Nghệ An để chế biến món tôm bay
Chỉ những người có kinh nghiệm trong chế biến món ăn mới am hiểu về món ăn đầy sức hấp dẫn và lắm công phu này. Người dân ở đây trịnh trọng gọi món này là “tôm bay” bởi nó có một sức hấp dẫn đến kỳ lạ. Những người con xa quê, lâu ngày về thăm nhà đều đòi mẹ, người thân chuẩn bị cho được món “tôm bay” để thỏa cơn thèm khát. Và khi đi xa, họ không quên mang theo ít cân cào cào ướp lạnh để làm quà.
Theo chị Lê Thị Loan, để chế biến được món “tôm bay” phải tuân thủ theo những trình tự nhất định, nếu thiếu đi một quy trình món “tôm bay” trở nên vô hồn, thậm chí là tanh không ăn được. Cào cào khi vừa bắt về, cắt bỏ phần chân trước, chân sau (không bỏ phần đùi), cắt cánh, rút bỏ ruột.
Làm xong, cho cào cào vào ngâm nước muối trong vòng 5 phút, rửa sạch cào cào một lần nữa bằng nước lã. Đem luộc cào cào trong vòng 3-5 phút lửa lớn, bỏ thêm một ít lá chanh và sả cho thơm, vớt cào cào ra để ráo nước rồi đem chiên với dầu, mỡ cho cào cào giòn lên, khi nào thấy vàng thì được.
Sau đó, bỏ gia vị ớt, tiêu, sả băm nhỏ, hành tăm, mật, lá chanh thái chỉ vào rim khô. Đặc biệt, để làm cho món “tôm bay” được ngon, chắc giòn và dai người ta bỏ thêm một ít nước dưa muối hoặc nước cà muối. Khi đó, món “tôm bay” mới thực sự hấp dẫn, chị Loan chia sẻ.
Theo ông Cao Huy Trí – Chủ tịch xã Nghi Kim, việc người dân nơi đây ăn cào cào không còn là điều xa lạ gì nữa. Cào cào đã trở thành món ăn truyền thống không thể thiếu từ đời ông cha để lại. Thời điểm này, nhiều nhà dân ở đây chẳng cần phải chợ búa gì, cứ ra chợ xách về một túi cào cào làm món “tôm bay” là lo xong thức ăn cho bữa cơm gia đình.
Riêng gia đình tôi, tuy không bắt được cào cào nhưng cũng đã mua về nấu rim để ăn. Nếu chưa ăn, ai cũng ái ngại, nhưng đã thử món này thì không thể quên được. Món “tôm bay” trở thành món khoái khẩu, một đặc sản truyền thống không thể thiếu của người dân nơi đây.
Theo Nguoduatin
Kiếm vài chục triệu mỗi tháng nhờ... săn cào cào
Họ ra đi lúc nửa đêm và trở về lúc trời tờ mờ sáng với 20kg cào cào buộc đằng sau xe. Mỗi kg có giá từ 30-50.000 đồng, mỗi đêm họ kiếm được ngót triệu bạc. Tính ra mỗi tháng thu nhập từ nghề săn cào cào lên đến vài chục triệu đồng.
Cào cào là món ăn không thể thiếu của một bộ phận người dân xã Nghi Kim, Tp Vinh
Chưa thể gọi tên một cách chính xác, tôi tạm gọi công việc săn cào cào của người dân xã Nghi Kim (TP Vinh, Nghệ An) là một nghề. Mà nó cũng xứng đáng được gọi là nghề thật bởi đã có lịch sử hình thành và phát triển gần một thế kỷ. Cái công việc nghe có vẻ lạ đời này đã cùng những người dân nghèo nơi đây vượt qua những thời khắc khó khăn nhất của cái thời kỳ đói ăn, đói mặc. Giờ đây, mỗi năm vẻn vẹn 2 tháng nhưng trên mâm cơm của nhiều nhà dân không thể thiếu món ăn chế biến từ những con cào cào béo ngậy.
Nghề "sống" về đêm
Chẳng ai nhớ cái nghề săn cào cào có từ bao giờ nhưng cứ đều đặn mỗi năm 2 tháng, vào tháng 7-8 dương lịch, hàng trăm người dân các xóm 6, 7, 8 và 11 xã Nghi Kim tay bì tay sào lên đường đi săn cào cào.
Cụ Thìn năm nay cũng phải ngót 80 tuổi, xách bịch cào cào nửa cân vừa mua nở nụ cười tươi rói hở hết hàm răng đã rụng mất 2 chiếc, cho tôi biết: "Nỏ (không) nhớ nghề ni có từ khi mô (nào) nữa, từ khi tui còn nhỏ đã ăn cái món ni (này). Giờ răng yếu rồi nhưng bữa cơm không có mấy con cào cào rim chua ngọt là cũng không muốn ăn".
Không ai đếm chính xác có bao nhiêu người đi săn cào cào, bởi có lúc chỉ chục người nhưng cũng có thời điểm cả làng kéo nhau đi. Dụng cụ để đi "săn" cũng đơn giản lắm, một chiếc sào tre hoặc nứa dài chừng 3m gắn một cái móc bằng sắt, vài cái bao tải đục những lỗ nhỏ cho cào cào khỏi chết ngạt hoặc mấy cái can dầu loại 5lít. Thế là lên đường.
Cào cào được bày bán ở làng quê xã Nghi Kim
Thực ra cũng có thể đi săn cào cào vào ban ngày nhưng loài cào cào tinh ranh, hễ thấy động là thi nhau nhảy loạn xạ, "thợ săn" cũng phải chạy bở hơi tai mới bắt được. Bởi vậy lựa chọn số một vẫn là đi săn vào ban đêm, trong chuyến hành trình này, đồ nghề của các "thợ săn" nhất thiết phải có cái đèn pin.
Anh Ngô Long - một trong những thợ săn cào cào cừ khôi xóm 7, xã Nghi Kim cho biết: "Chúng tôi chỉ bắt loài cào cào xanh, còn gọi là cào cào rú, cỡ to bằng ngón tay cái, mỗi cân cũng chừng 110-120 con. Giống cào cào này sống chủ yếu ở vùng đất cát, trên các cây phi lao hoặc cây sắn. Đầu mùa thì kéo nhau xuống bãi phi lao Cửa Lò, giờ thì sang huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Thời điểm này, đi mỗi đêm cũng bắt được chừng 2 yến, hôm cao điểm cũng được 3 yến".
Tôi nhẩm tính, với giá hiện tại 30.000 đồng/kg loại chưa vặt cánh, 40-50.000 đồng/kg loại đã sơ chế thì mỗi đêm vợ chồng anh Long cũng bỏ túi chừng 1-1,5 triệu đồng. Tuy nhiên những người săn cào cào về bán như anh Long chỉ đếm trên đầu ngón tay, số còn lại chủ yếu bắt ngày vài kg làm thức ăn.
Nhiều nhà mua cào cào thay thức ăn
Xòe bàn tay đen xì đầy vết xước, anh Ngọc - một "đồng nghiệp" của anh Long (xóm 6, Nghi Kim), nói: "Đừng tưởng làm cái nghề này đơn giản. Thợ săn cào cào lành nghề phải hội tụ đủ các phẩm chất: chịu khó, tỉ mỉ và phải hết sức khéo léo. Săn vào ban đêm được cái là cào cào không nhìn thấy gì nên không bay. Chọn được cành cây nặng trĩu cào cào đang say ngủ, nhẹ nhàng dùng sào vít xuống rồi tha hồ mà nhặt. Tuy không bay nhưng khi bị tóm, các chú cào cào mới búng càng loạn xạ. Những móc nhỏ xíu nơi càng tỉa vào lòng bàn tay. Lúc đó chẳng thấy thấm vào đâu nhưng giờ thì tay ai cũng chi chít vết xước và đen nhẻm thế này đây".
Không những thế, thợ săn cào cào luôn phải thường trực trên quần áo thứ mùi tanh nồng của nhựa cào cào, thứ mùi mà dẫu có đứng xa mấy mét vẫn xộc vào mũi người đối diện.
Những người săn cào cào đêm nhiều khi cũng phát hoảng bởi vít được cành cây trĩu cào cào xuống, giơ tay ra bắt thì tá hỏa bởi một chú rắn đang ngóc đầu ngó nghiêng. Gặp những vị khách không mong muốn như thế, tốt hơn hết là nhẹ nhàng thả cành cây ra tìm một cây khác để tiếp tục cuộc đi săn.
Ra đi lúc 12h đêm, thợ săn về đến nhà lúc trời vừa tờ mờ sáng khi cái bì đã lưng lửng đầy để kịp cho buổi chợ. Cái chợ cóc nơi ngã tư đường liên xóm bỗng tấp nập hẳn lên khi hai người phụ nữ hẩy hai bao tải đựng cào cào xuống đất. Bên cạnh đặt cái xô nhựa to, hai người phụ nữ thoăn thoắt vặt cánh cào cào rồi bỏ vào. Khoảng chục người vây xung quanh, chưa đến 9h sáng, 4 yến cào cào đã hết veo.
Những con cào cào được vặt cánh đưa ra chợ bán
Chị Hằng, vợ anh Long giải thích: "Ở đây chúng tôi chỉ bán cho người trong làng, trong xã thôi chứ ít khi bán cho các quán nhậu lắm. Nghe bảo ngoài Hà Nội người ta bán mấy trăm nghìn một đĩa đấy".
Mùa săn cào cào kết thúc khi cào cào đẻ trứng và chết đi. Và món cào cào cũng vắng bóng trên các mâm cơm khi cào cào có máu (khi bị bắt, miệng cào cào ứa ra một chất lỏng màu xanh, người dân ở đây gọi đó là máu cào cào), từ thời cha ông đã như vậy nên cũng chẳng ai thắc mắc làm gì.
"Tôm bay" - món ăn cũng lắm công phu
Người dân nơi đây vẫn truyền nhau câu cửa miệng "Ân rượu nếp, Kim tôm bay" ấy là để nói về các "đặc sản" của 2 xã này. Nếu như xã Nghi Ân (Tp Vinh) nổi tiếng với món rượu nếp thì Nghi Kim nổi tiếng với món cào cào chua ngọt. Cũng lạ là chỉ chỉ có người dân Nghi Kim mới dám ăn và gọi với cái tên rất sang trọng: Tôm bay. Từng đó cũng đủ hiểu món cào cào này ngon như thế nào rồi.
Cụ Thìn chép miệng: "Hồi xưa dân ở đây nghèo lắm, chẳng có chi mà ăn. Đói miết, người dân đành bắt cào cào về rang, cho thêm tý mắm, tý muối vào ăn với cơm. Hồi đó, nước mắm, mỳ chính làm chi có, người ta lấy nước dưa, nước cà muối rim với cào cào. Vừa đỡ mắm muối, cào cào lại dai, dòn. Giờ thì khác rồi, làm được đĩa cào cào mà ăn cũng công phu lắm".
Sau mỗi đêm đi săn cào cào, chị Hằng cũng bỏ túi từ 1 -1,5 triệu đồng
Cào cào vặt hết cánh, bỏ chân, hai cái càng và đầu, rút bỏ ruột chỉ chừa lại phần ức, đuôi và hai cái đùi, cho vào nước muối ngâm rửa sạch cho bớt mùi tanh. Vớt cào cào ra để cho ráo nước rồi cho vào luộc. Nước luộc phải cho thêm tý muối, mỳ chính, để sôi chừng 5 phút cho ngấm rồi vớt ra.
Cho cào cào lên chảo gang đảo đều tay đến khi cào cào vàng đều thì xúc ra rổ để nguội. Phi hành mỡ, sả thật thơm, bỏ cào cào lên xào, nêm mắm, muối vừa đủ. Khi cào cào cháy cạnh thì xúc ra bát, đổ toàn bộ dầu vừa xào đi. Phi hành mỡ, sả bỏ cào cào lên xào một lần nữa, thêm một chút hạt tiêu, bột nêm rồi xúc ra mâm. Rải thêm vài thìa đường, lá chanh thái sợi, vắt nước chanh lên đảo đều cho đường ngấm là có một đĩa mồi nhậu hết ý. Những con cào cào vàng rộm, béo ngậy, thơm phức, bỏ vào miệng cảm giác như tan đầu lưỡi.
"Cào cào đầu tháng 8 là ngon nhất, lúc này mưa lắm, lộc nhiều, lại mùa cào cào mang một bụng trứng, béo lắm. Vả lại cào cào chỉ ăn lá non nên rất lành", ông Chân - xóm 7 cho biết. Cũng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu hàm lượng chất dinh dưỡng có trong cào cào nhưng với người dân nơi đây, cào cào đã trở thành món ăn truyền thống không thể thiếu dù đời sống đã khấm khá hơn trăm lần so với cách đây ngót thế kỷ. Thời điểm này, nhiều nhà dân ở đây chẳng cần phải chợ búa gì, cứ ra ngã tư, xách về một túi cào cào là coi như lo xong thức ăn cho bữa cơm gia đình. Vào mùa cào cào, có nhà còn rim 5-6 cân rồi đóng gói cẩn thận gửi đi nơi khác làm quà cho người thân.
Cái nghề chẳng giống ai này là niềm tự hào của không ít người dân nơi đây. Vừa cải thiện bữa ăn, vừa được coi là "nghề xóa đói giảm nghèo" lại góp phần bảo vệ cây cối khỏi nạn cào cào phá hoại mà không cần phải dùng đến thuốc bảo vệ thực vật.
Theo Dân Trí
Kawasaki D-Tracker 125 - 'cào cào' cỡ nhỏ tại Việt Nam Chiếc motard hạng nhẹ cân trang bị động cơ 125 phân khối, thích hợp với những người ưa đi địa hình và không cần bằng lái A2. D-Tracker 125 và KLX125 đời 2011 là cặp đôi mà Kawasaki tung ra hồi cuối năm ngoái. Thiết kế của hai mẫu xe này chỉ có chút khác biệt và gần như là "đối xứng gương"....