Kỳ lạ bộ tộc… cà răng căng tai
Quá trình dùng hòn đá cà 6 cái răng cho cụt đến sát lợi kéo dài hàng giờ đồng hồ trong sự đau đớn tột độ. Vậy nhưng 2 tộc người Bahna và Jrai vẫn có kiểu “hành xác” kỳ quái như thế để “cho giống trâu bò, cho khác con thú”.
Được chính phủ bảo hộ (Pháp) lập vào năm 1913 năm nay tròn 100 năm tuổi, tỉnh Kon Tum nằm ở phía tây dãy Trường Sơn, là địa bàn cư trú của nhiều tộc người với 2 tộc người có dân số đông là Gia Rai và Bahna. Qua bao biến chuyển của thời cuộc với những lần tách nhập, người Jrai cư trú phần đông ở tỉnh Gia Lai, riêng người Bahna đến nay vẫn là cư dân cổ trên cao nguyên Kon Tum huyền bí!
Cư trú ở vùng đất xa xôi cách trở nhất Tây Nguyên, Bahna là dân tộc gắn với nhiều huyền bí. Từ những chuyến xuyên sơn, lặn lội giữa đại ngàn Kon Tum huyền ảo, chúng tôi hiểu hơn về họ – tộc người anh em chân chất, hào sảng với nhiều chuyện lạ về văn hóa, phong tục đến ngỡ ngàng!
Lạ kỳ… người tai dài
Xuất phát từ TP HCM, vì Kon Tum là vùng đất cuối của Tây Nguyên nên để đến được cao nguyên huyền hoặc này, chúng tôi buộc phải chinh phục chặng đường gần 600km, đi qua các tỉnh nổi tiếng lắm núi nhiều rừng gồm Bình Phước, Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai. Phải nói đây là hành trình bầm dập đến nhớ đời, bởi phải đi qua muôn vàn khúc cua tử thần bên vách núi thăm thẳm, bên vực sâu hun hút.
Sau bao mỏi mệt lẫn háo hức, chúng tôi cũng đến được TP Kon Tum – đô thị trăm năm ẩn giữa rừng già ngút ngàn. Chính tại nơi này, hình ảnh những sơn dân với hàm răng trên bị cà sát và đôi dái tai lòng thòng được xỏ ngà voi đã thu hút không chỉ chúng tôi mà có lẽ với bất kỳ ai chẳng ngại lặn lội đến nơi núi cao rừng thẳm!
Điểm dừng đầu tiên của chúng tôi là làng Kon JơDri – ngôi làng cổ nằm gối đầu bên dòng sông Đắk Bla mà theo ngôn ngữ bản địa có nghĩa “dòng sông ăn thịt người”. Làng Kon JơDri thuộc địa phận xã Đắk-Rơ-Wa, TP Kon Tum. Khi rong ruổi vào làng, chúng tôi tình cờ gặp một cụ già có dáng hình rất đặc biệt với đôi dái tai lòng thòng, dài gần chấm vai và đôi khoen kỳ lạ to lớn như ống chỉ. Giọng Kinh lơ lớ, cụ già cho biết cụ tên Rơ-chăm Thị Lệch, ngoài 70 mùa rẫy!
Mùa rẫy là cách tính tuổi của các tộc người Tây Nguyên thuở sơ khai. Một mùa rẫy tương ứng với 1 năm tuổi. Không chỉ đôi dái tai lòng thòng, chúng tôi còn ấn tượng trước hàm răng trên bị mài nhẵn của cụ Thị Lệch. Nhờ được A Sáo, một học sinh người Xơ-đăng vốn là người bản địa giải thích, chúng tôi mới biết đôi tai dài và hàm răng bị cà sát của cụ Thị Lệch là hiện thân của hủ tục cà răng căng tai ngày trước.
Hỏi chuyện, mới rõ cụ Thị Lệch không phải là người Bahna, mà là người Jrai ở huyện vùng cao Chư Pảh thuộc tỉnh Gia Lai. Cụ đến buôn làng của người Bahna để thăm một người bà con đang lâm trọng bệnh. Nói về đôi dái tai quá đỗi lạ kỳ của mình, cụ Thị Lệch giải thích người Jrai xưa quan niệm người có dái tai dài là người quyền sang, quý phái. Vì nghĩ như thế nên từ hồi còn bé, con gái con trai Jrai đã được bố mẹ xỏ lỗ tai, chỉ cho cách nong vành tai cho ngày càng lớn, càng dài để được sang, được đẹp!
- Kỹ thuật nong vành tai như thế nào, có đau lắm không, thưa già?
- Ồ, dễ thôi mà. Lúc nhỏ thì xỏ cọng rơm, quen rồi thay bằng cọng lồ ô, cành lồ ô. Tiếp đến nong tai bằng ống lồ ô. Ống nhỏ nong được rồi thì nong ống lớn hơn!
Chưa nói dứt câu, cụ Thị Lệch đưa tay tháo cho chúng tôi xem chiếc hoa tai kỳ lạ của mình. Cụ bảo đấy là gai-ngai, là hoa tai bằng ngà voi, là vật quý truyền đời, chỉ người giàu có mới mua được vì giá rất đắt. Một ống hoa ngà như thế phải đổi bằng một con trâu mộng.
“Chỉ dùng gai-ngai khi làng có hội vui như đám cưới, cúng Yang (thần linh-PV). Cái này không bán, chỉ là mẹ truyền cho con thôi” – cụ Thị Lệch khẳng định.
- Nếu không có trâu để đổi lấy gai-ngai thì lấy gì xỏ tai trong ngày vui ngày lễ, thưa già?
- Dùng ống tre, ống lồ ô nè. Hay dùng sừng trâu sừng bò nè!
Bí ẩn liên quan đến đôi dái tai “khủng” của cụ Thị Lệch là thế. Bí ẩn này chỉ gắn với các bà, các chị người Jrai. Riêng với các bóng bồng Bahna, tục căng tai là khái niệm hoàn toàn xa lạ.
Video đang HOT
Một góc dòng Đắk bLa chảy qua địa phận xã Kon Rơ Wa
Những lời kể rùng rợn quanh hủ tục cà răng…
Chẳng như người Jrai, người Bahna không xem trọng việc nong vành tai để làm đẹp. Tộc người này chỉ chú trọng đến nghi thức thổi-xỏ lỗ tai cho trẻ em cả trai lẫn gái. Bởi họ tin một đứa trẻ khi chào đời chưa thật hoàn toàn là người, có khi chỉ là loài chim, khỉ. Chỉ khi được thổi tai, được xỏ lỗ tai với lời khấn của bà mụ “Hôm nay tao thổi lỗ tai cho mày để mày làm người” thì đứa trẻ mới được xem là người và có trí tuệ.
Đó là lý do mà xuyên suốt làng Kon Kri, chúng tôi chẳng thấy ai khác ngoài cụ bà Thị Lệch có đôi tai dài. Dầu vậy, tuy khác nhau về hình dáng và quan niệm liên quan đến đôi tai nhưng giữa 2 tộc người Jrai và Bahna có điểm chung về những chiếc răng bị mài cụt với 6 chiếc răng giữa ở hàm trên “rụng” đến tận lợi. Những người làng ở độ tuổi từ 50 trở lên mỗi khi cười đều khoe “hàng tiền đạo” trống rỗng như thế!
Vì sao lại có sự lạ như vậy?!
Thắc mắc này của chúng tôi được nhiều người già Bahna mỗi người có câu trả lời khác nhau. Già làng K’Bớt, ngoài 70 mùa rẫy cười khoe hàm trên mà theo lời kể của già bị “thổi bay” khi còn trẻ: “Cà bằng đá, cà đau lắm”.
Ghi chép của các nhà dân tộc học người Pháp vào thập niên 40 thế kỷ trước khi “thám hiểm” tại Kon Tum cho biết con trai, con gái người Bahna khi ở tuổi 15-16 đều phải cà răng với kỹ thuật rất dễ sợ: Quỳ gối phía trên đầu, hai gối kẹp chặt lấy 2 bên tay người có răng, người thợ cà răng tay cầm hòn đá nhám cà qua cà lại 6 cái răng cửa cho đến khi mòn sát nướu răng mới thôi trong cảnh máu me tung tóe!
“Phải trả công người cà răng những gì, thưa già” – chúng tôi hỏi già làng K’Bớt và câu trả lời là “nếu không phải một con gà thì ghè rượu”!
Cà răng theo kiểu dùng đá mài qua mài lại như thế theo chia sẻ của các cụ già đau đớn vô cùng. Những ngày đầu chẳng thể ăn uống gì được do miệng sưng to. Thường thì phải sau một tuần kể từ lúc cà răng thì sự đau đớn mới chấm dứt. Lúc này người “thợ” cà răng tiến hành việc nhuộm răng cho “Thượng đế” bằng một thứ nhựa đặc biệt được chiết xuất từ một loại cây rừng chẳng mấy ai biết được.
- Thưa già, già có biết đó là cây gì không?
- Ồ, là cây long pơnek, người Kinh gọi là cây rang!
Nói theo già K’Bớt, để nhuộm răng, người ta đốt cây long pơnek cho chảy ra thứ nhựa đen như hắc ín (dầu hắc) và quệt bôi ở khu vực răng bị cà mòn và những chiếc răng còn lại. Cứ mỗi ngày sau bữa ăn bôi một lần, bôi liên tục từ 20-30 ngày thì hàm răng sẽ bóng chắc, và chỗ bị cà mòn từ đây trở về sau không bị đau nhức, sưng tấy.
“Nhựa cây long pơnek nhuộm răng tốt, chữa đau răng rất hay. Ai được bôi nhựa long pơnek về già không bị đau răng” – già K’Bớt và nhiều người già khác, khẳng định!
Người Jrai và Bahna cà răng cho giống loài trâu mà họ nhận làm thú tổ?
Hành xác cho giống “thú tổ”?
Kỹ thuật cà răng của người Jrai cũng tương tự người Bahna. Quá trình dùng hòn đá cà 6 cái răng cho cụt đến sát lợi như thế kéo dài hàng giờ đồng hồ đau đớn tột độ, vậy nhưng vì sao 2 tộc người Bahna lẫn Jrai lại có kiểu cà răng kỳ quái như thế? Như già K’Bớt, câu trả lời của già làng Rơ-chăm Bul ở xã Ia M’nông huyện Chư Pảh (Gia Lai) mà chúng tôi gặp sau khi rời tỉnh Kon Tum, rất giản đơn: “Cà răng cho giống trâu bò, cho khác con thú”.
- Ý nghĩa cụ thể hơn là sao, thưa già?
Già Rơ-chăm Bul đáp lại câu hỏi này với đại ý khi chưa cà răng, hàm răng của người ta chẳng khác gì răng cá sấu, răng chó. Để khác loài thú ăn thịt đó, phải cà răng cho giống trâu, bò…
Vì sao lại phải chấp nhận đớn đau cà răng cho giống trâu bò thì các già làng không giải thích được. Sau này khi đọc tư liệu khảo cứu của ông G.H.Hoffet về các dân tộc vùng cao ở dãy Trường Sơn với suy đoán rằng các dân tộc đất Tây Nguyên thuở trước nhận trâu làm thú tổ, chúng tôi tạm đoán định có thể người Jrai và Bahna cà răng để được giống loài thú tổ của mình.
Cứ cho là người Bahna cà răng cho giống “thú tổ” thì đâu là căn nguyên của việc họ chấp nhận đớn đau, chấp nhận hành xác cho giống “thú tổ”. Ghi chép của các nhà dân tộc học người Pháp lẫn người Việt mà chúng tôi tiếp cận đều không thấy giải thích thấu đáo điều này.
Nụ cười trống “hàng tiền đạo” của già K’Bớt
Điều khá bất ngờ là trong quá trình tìm kiếm chìa khóa giải mã cội nguồn của tục cà răng, chúng tôi ghi nhận giải thích khá có lý của một số người già rằng thuở xưa, tổ tiên họ cho rằng với hàm răng sắc bén như dao cạo, cọp sấu giết hại con người nên chúng là loài ác thú. Để tỏ rõ sự căm phẫn chúng cũng như sự khác biệt giữa người và thú, tổ tiên người Bahna đã quyết định cà răng cho giống loài thú hiền lành, thân thiện như trâu bò?!
- Còn có lý do gì khác để giải thích cho tục cà răng không, thưa già?
- Cà răng đau nhưng phải chấp nhận thôi. Con trai con gái đến tuổi không chịu cà răng dân làng chê cười, mọi người khinh thường. Chẳng ai chịu lấy làm chồng, làm vợ!
Đó là câu trả lời của một già làng tên Nhol mà chúng tôi gặp ở cuối làng Kon K’Tu. Theo già Nhol, bên cạnh lý do giống thú tổ, tổ tiên người Bahna khai sinh và duy trì tục cà răng còn nhằm ý nghĩa sâu xa, rèn luyện cho dân làng tính can trường, không sợ đau đớn, không sợ chết.
Già Nhol nói cà răng đau đớn tột cùng nhưng khi trải qua rồi, chẳng có đớn đau nào khiến một người đã qua giai đoạn cà răng khiếp sợ. Và chỉ có sự can đảm, xem thường đớn đau, xem thường cái chết ấy thì anh ta mới có đủ dũng khí chống lại mọi sự xâm hấn của kẻ địch hay thú dữ để bảo vệ sự an nguy cho người thân hay buôn làng của mình.
Trong tất cả những giải thích về ý nghĩa, ngọn nguồn của tục cà răng, có lẽ chia sẻ này của già Nhol dễ chấp nhận nhất. Nếu đặt ở bối cảnh của hàng trăm năm trước, sẽ thấy rằng cuộc sống giữa rừng sâu rất khốc liệt vì thường xuyên xảy ra cuộc chiến giữa những bộ tộc. Nên nếu không rèn cho dân làng tính can đảm, kiên cường, không sợ đau đớn, nguy cơ bộ tộc hèn yếu bị bộ tộc hùng mạnh tiêu diệt là điều khó tránh khỏi.
Hẳn nhiên đó chỉ là suy luận của chúng tôi. Để có câu trả lời trọn vẹn, thuyết phục, cần có sự vào cuộc của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về dân tộc học. Riêng chúng tôi chỉ dừng lại ở việc phản ánh chuyện lạ liên quan đến luật tục mà nhiều người cho là quái dị, có khi là hủ tục man rợ… nay chỉ còn tồn tại qua nụ cười của những người già và trong vài thập niên nữa thôi sẽ vĩnh viễn khép lại!
(Còn tiếp)
Theo 24h
Khiếp đảm hủ tục... thiêu đồng nhi
Câu chuyện dâng cúng nô lệ cho nữ thần quyền năng trên "đỉnh đồi vàng" (Tháp bà Pônagar) của các vua chúa Chàm ngày trước ở xứ Kauthara (nay là Khánh Hòa) đã dẫn dắt chúng tôi lạc chân vào những tục cúng lạ của các chủ lưới đăng ngày trước.
Trong những nghi lễ tín ngưỡng lạ kỳ đến không tưởng ấy, nổi bật hủ tục người tế người. Với hủ tục này, nô lệ đem tế thần sẽ bị chủ đầm giết chết và hỏa thiêu để làm vui lòng những hung thần biển cả!
Như đã đề cập ở số báo trước, khi nhận được tin mật từ ông T. Kính - một đầu nậu cổ vật có máu mặt ở khu phố cổ Lê Công Kiều (quận 1, TP HCM), chúng tôi đã dày công giải mã. Để rồi phát hiện ra rằng những dòng ký tự cổ được khắc ghi trên các bia ký bằng đá trên "ngọn đồi vàng" ghi chép rất rõ những lần dâng cúng nô lệ của các vua chúa Chàm.
Theo đó, nô lệ được dâng cúng là trẻ em, phụ nữ và cả đàn ông. Khi được (hoặc bị - PV) dâng cho thần, họ phải hầu hạ cả đời cho các vị thần quyền năng, tuyệt nhiên không thấy các bia ký nhắc đến chuyện họ bị hỏa thiêu hay chôn sống!
Trong quá trình gần một tháng trời rong ruổi khắp xứ Kathura ngày nào để tìm hiểu thân phận của những nô lệ được dâng cúng cho các vị thần quyền năng trên đỉnh đồi vàng, người viết vỡ lở sự thật phũ phàng rằng, không phải vô duyên vô cớ mà trong dân gian râm ran chuyện đã có nhiều nô lệ bị giết chết một cách tàn nhẫn như hỏa thiêu, chặt đầu để làm vui lòng các vị thần quyền năng. Có điều, những chuyện nô lệ bị đem tế thần một cách tàn nhẫn ấy không phải diễn ra trên đỉnh đồi Cù Lao nơi có cụm tháp cổ Pônagar hơn 1.000 năm tuổi mà tại những ngôi làng cổ ven biển, nơi từng phát triển nghề lưới đăng. Chính các chủ đầm đăng này với niềm tin ngu muội cúng người để để quỷ thần vui lòng ban ơn chiếu lộc cho bội thu vụ mùa, đã lén lút làm điều bất nhân vô đạo, mua nô lệ về giết hại.
Trong "Tín ngưỡng dân gian Khánh Hòa", tác giả Lê Quang Nghiêm có nhắc đến quái tục, chủ lưới đăng thiêu một mạng người cúng dâng các hung thần biển cả. Theo đó, bên cạnh việc tôn thờ thần linh biển cả như ngư dân các vùng khác, ngư phủ lưới đăng còn có những tục lệ thờ cúng riêng biệt, nổi bật là tục lệ cúng hình nhân kích cỡ bằng người thật rồi thả trôi trên biển, tục thờ cúng bà Dương Thị Đĩ Nương Nương và kinh khủng nhất là tục thiêu một mạng người vô cùng tàn nhẫn!
Khu dân cư Vũng Ngán và một góc Sở đầm ngày nào
Tục cúng hình nhân rồi cột đá thả trôi xuống biển xảy ra ở Sở đầm Hòn Xưởng, trước thuộc quận Vĩnh Xương, nay thuộc phường Phương Sài, Nha Trang. Theo các bậc cao niên, Sở đầm Hòn Xưởng có tục cúng và lệ thờ 32 ngư phủ tiền bối. Chuyện kể rằng vào năm 1857, 32 ngư phủ này di chuyển từ phường Mới, Tam Quan, Bình Định vào Khánh Hòa khai thác lưới đăng ở Hòn Xưởng nhưng cả thảy bị chết thảm vào giữa đêm 24 tháng Giêng âm lịch ngay tại sở đầm này.
Cũng theo các bậc cao niên, Sở đầm Hòn Xưởng còn ghi nhận cái chết của một thợ lặn tên Nguyễn Sởi. Để thờ cúng những ngư phủ bạc mệnh này, mỗi năm đến ngày giỗ, những người tìm sinh kế từ nghề lưới đăng nói riêng, nghề biển nói chung làm 2 hình nhân bằng cốt tre bồi giấy, cúng xong cột đá vào 2 hình nhân này rồi thả xuống biển, theo lệ cúng âm binh "nhứt nhân thế nhị nhân" (1 người thế 2 người).
Cần nói rõ rằng, thời bấy giờ ông Nguyễn Sởi là thợ lặn kỳ tài, từng giúp ngư dân ở Sở đầm Vũng Ngán cũng thuộc phạm vi quận Vĩnh Xương hóa giải những gian khó khi hành nghề nên khi ông chết đi, nhớ ơn ngày trước nên ngư dân ở Sở đầm Vũng Ngán cũng giữ lệ cúng thế như Sở đầm Hòn Xưởng.
Chẳng như hai sở đầm Vũng Ngán và Hòn Xưởng chỉ cúng thế hình nhân bằng cốt tre bồi giấy, tại một số sở đầm khác trong địa phận tỉnh Khánh Hòa như Sở đầm Hòn Đỏ, Sở đầm Hòn Một, dân hành nghề lưới đăng chẳng ngại thiêu người: "Đầm Hòn Một thuộc quận Vĩnh Xương, có tục thiêu người cúng các bác (cô hồn) từ khi đầm được khai thác cách đây gần 200 năm. Các ngư phủ lão thành ở thôn Bích Đầm xác nhận có việc này nhưng không biết rõ chi tiết vì sợ chính quyền phát hiện, chủ sở đầm lén lút thiêu người lúc giữa khuya, cúng xong thả xác xuống biển" - trích "Tín ngưỡng dân gian tỉnh Khánh Hòa".
Việc thiêu một mạng người cúng thần linh tại Sở đầm Hòn Đỏ được ghi chép như sau: "Ngày xưa đảo Hòn Đỏ nổi tiếng nhiều ma quái và rất linh thiêng vì có rất nhiều người Chiêm Thành, Việt Nam, Trung Hoa bất đắc kỳ tử trên đảo hoặc trôi tấp vào vì bão tố, tai nạn, chinh chiến, giặc cướp... Từ khi mới khai thác lưới đăng, đầm Hòn Đỏ có tục mỗi năm thiêu một trẻ nhỏ (người Thượng) 5 hoặc 7 tuổi, cúng dâng hung thần là ông Nguyễn Văn Thới mà ngư dân lớp sau này không biết rõ lai lịch xuất xứ. Việc làm vô nhân đạo này kéo dài có lẽ 100 năm và chấm dứt cách nay trên 100 năm, rồi được thay thế bằng việc cúng heo".
Sở đầm Hòn Nhàn thuộc quận Cam Lâm ngày trước cũng được ghi nhận có tục thiêu người cúng Nhang Dàng (ma quỷ). Theo đó, vì đảo Hòn Nhàn ngày trước có nhiều ma quỷ quấy quá dữ dội, đòi thiêu người cúng dâng mới cho bình yên nên chủ đầm đành phải làm theo. Thế nên vào giữa mùa cá - khoảng từ tháng 3 âm lịch hằng năm, chủ đầm kính cẩn rước thầy làm lễ cúng Nhang Dàng với lễ vật chính là một trẻ em người Thượng bị thiêu tại gành, gần chỗ đóng lưới và miếu thờ Hội đồng: "Cúng xong họ thả hết lễ vật xuống biển. Việc thiêu người chấm dứt cách nay trên 100 năm, Sở đầm Hòn Nhàn vẫn giữ lệ cũ cúng Nhang Dàng bằng heo"...
Để được rõ hơn về nghề lưới đăng gắn với hủ tục man rợ thiêu người, chúng tôi đón tàu đi đến đảo Đầm Bấy, điểm đảo cuối cùng xa xôi cách trở nhất TP Nha Trang tìm gặp ông Phạm Văn Tờ, 78 tuổi, vốn rất rành rẽ chuyện xưa tích cũ, nhất là chuyện thiêu người. Để đến được Đầm Bấy, chúng tôi phải đi qua các sở đầm Vũng Ngán, Bích Đầm. Cần nói rõ là khi đi qua 2 sở đầm này, tìm gặp một số cư dân bản địa ở vùng, khi hỏi thăm về chuyện chủ sở đầm ngày nào thiêu người, những gì chúng tôi ghi nhận chỉ là con số không to tướng.
Như Vũng Ngán và Bích Đầm, đảo Đầm Bấy nay thuộc địa phận phường Vĩnh Nguyên, TP Nha Trang. Về mặt hành chính, nơi này là tổ dân cư hẳn hoi nhưng buồn làm sao, vừa gặp mặt, ông Phạm Văn Tờ đã buông lời thở than rằng, ông sống ở vùng này đến nay đã gần 80 năm, trong khi 2 tổ dân cư Bích Đầm và Vũng Ngán điện nước đâu đã vào đó thì cư dân Đầm Bấy vẫn sống trong cảnh tù mù "điện không nước không", cuộc sống của người dân vô cùng khó khăn đến độ nhiều người phải rời bỏ quê hương bản quán đi mưu sinh xa xứ.
Sau lời tâm sự nghe đắng lòng về cuộc sống nhiều dấu lặng nơi đảo xa, khi được hỏi chuyện về nghề lưới đăng gắn với tục thiêu người, ông Tờ khẳng định chuyện hỏa thiêu như thế là có thật. Tuy ông không từng chứng kiến việc làm tàn bạo ấy nhưng cụ thân sinh ông từng thấy và chỉ cho ông nơi mà các chủ đầm từng hành hình những nô lệ xấu số bị bán mua để tế thần.
Nghề lưới đăng theo giải thích của ông Tờ từng là hải nghệ cực thịnh ở Khánh Hòa. Các mũi đảo, bãi triều, những đầm vịnh, đảo lớn đảo nhỏ tầng tầng lớp lớp với các dòng hải lưu nóng lạnh, nguồn thực vật phù du phong phú đã là nguồn thức ăn dồi dào, quyến rũ nhiều đàn cá từ ngoài khơi tiến sát bờ, thích hợp cho nghề đầm đăng phát triển. Cũng theo ông Tờ, đầm đăng là nghề đánh bắt ít nhọc công nhưng năng suất cao ngất ngưởng vì không cần phải di chuyển giàn lưới mà chỉ cần cắm lưới ở những điểm cố định đón sẵn các đàn cá tươi ngon như cá thu, cá ngừ, cá bò, cá gòn, cá cờ... vào "nạp mạng".
- Đầm Bấy ngày trước có nghề lưới đăng không, thưa bác?
- Chỉ có ở Bích Đầm thôi. Làng nằm tựa lưng dưới núi hồng thuộc đảo Hòn Tre. Nghe các cụ kể ngày trước cá về Bích Đầm nhiều vô kể, nhờ nước trong xanh như màu ngọc bích nên khi vào mùa cá, đứng trên núi nhìn xuống thấy rõ các luồng cá đi. Tiền hiền ở làng là cụ Trương Văn Cõi cùng vợ là Phạm Thị Vơi, đến đây từ khoảng đầu đời Gia Long, sinh sống chủ yếu bằng nghề khai thác đầm đăng.
Mùa đầm đăng bắt đầu từ tháng Giêng kéo dài đến tháng 5 âm lịch là mãn mùa. Theo cụ Tờ, thời điểm mà chủ đầm đăng thiêu người dâng cúng quỷ thần diễn ra vào đầu mùa. Tiếc rằng hôm chúng tôi đến Bích Đầm, do mưa to gió lớn nên cụ Tờ chẳng thể đưa chúng tôi đến gành đảo, nơi mà hơn 100 năm trước từng diễn ra các màn giết tế bạo tàn của chủ đầm đăng, để chúng tôi có thể thắp nén hương cho những vong linh bạc mệnh vì vụ mùa của các chủ đầm mà phải chết trong đau đớn, tức tưởi!
Thạch tượng (voi đá) tương truyền là "lễ vật" tế thần hơn 1.000 năm trước ở Tháp Bà Pônagar
Hỏi có nắm được số lượng bao nhiêu nô lệ bị giết chết hay thiêu sống để tế thần, cụ Tờ lắc đầu bởi chuyện xảy ra quá lâu, cụ chỉ biết qua lời kể của cụ thân sinh nên chẳng thể nào rõ được. Chỉ biết rằng cứ mỗi đầu mùa lưới đăng, chủ đầm lại thiêu một trẻ nhỏ cúng thần. Sau này, chúng tôi gặp được ông Mai Vọng, bậc cao niên ở sở đầm Bến Cá (phường Phương Sài, TP Nha Trang), người cũng rất quan tâm đến hủ tục thiêu người ngày nào.
Nói về số lượng nô lệ bị thiêu ở các sở đầm, trong đó có Sở đầm Bích Đầm, cụ Vọng, phân tích: "Sở đầm Bích Đầm được thành lập từ đầu đời Gia Long, tính đến nay đã hơn 210 năm. Trong khi đó, hủ tục thiêu người nghe đâu đã không còn tồn tại được khoảng 100 năm, có thể phỏng đoán số nô lệ bị sát hại bằng việc lấy con số 210 trừ con số 100, sẽ ra số lượng đồng nhi ước chừng bị thiêu chết".
Nhưng tại sao lại là đồng nhi mà không phải là trinh nữ hay đàn ông, đàn bà nào khác? Đến bây giờ, khi khép lại bài viết này, chúng tôi vẫn chưa thể giải mã ẩn số ấy. Chỉ biết rằng cái hủ tục bạo tàn kia như đã nói do quá dã man nên đã bị nhà cầm quyền nghiêm cấm và khép lại hơn 100 năm qua. Dẫu là chuyện của một thời quá vãng nhưng từ khi đi sâu tìm hiểu về hủ tục này, thi thoảng hình ảnh về những đứa trẻ người Thượng (ở Tây Nguyên) bị người ta lạnh lùng mua bán, bị các chủ đầm đăng đóng vào cũi bí mật chở ra đảo xa hỏa thiêu trong hoảng sợ, đau đớn tột cùng, ẩn hiện sâu trong tâm khảm khiến chúng tôi chạnh lòng.
Cùng là con người nhưng có những thân phận như những đứa trẻ bị hỏa thiêu cúng thần như chúng tôi đề cập ở bài viết này khi chết chẳng được mồ yên mả đẹp, chẳng được ai đoái hoài nhớ thương, cúng kính. Bài viết này xem như nén tâm hương an ủi vong linh những thân phận xấu số, đồng thời xem như lời tạ lỗi của các chủ đầm đăng một thuở vì sự ngu muội đã làm điều vô đạo khó có thể dung thứ!
Theo 24h
Những chuyện kỳ lạ nơi cuối trời Tây Bắc Có người gọi là bùa ngải, có người bảo là do dân trí thấp, dân tộc Mảng ở Nậm Tần Xá, bản biên giới của xã Pa Tần (huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu) có những chuyện mà nếu không trực tiếp chứng kiến sẽ khó lòng tin nổi. Tục nhận con nuôi kỳ lạ Nậm Tần Xá là bản người Mảng xa...