Kỳ 3: “Dàn nhạc Đỏ”
Ngày 13-9-1943, một xe ô tô chở hai người khách dừng trước một hiệu thuốc tại Paris. Lần lượt, hai người rời xe bước vào. Chợt có tiếng hô lớn: “Hắn chạy thoát qua cửa sau. Phải phong tỏa ngay khu vực này”…
Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường
Người chạy trốn là Leopold Trepper, điệp viên Xô-viết đã đồng ý về làm việc cho phát-xít Đức trước đó vài tuần. Đám người Đức tức tối lùng sục khắp thành phố…
Ngay từ năm 1938, Leopold Trepper đã lập ra một mạng lưới tình báo Xô-viết rất mạnh ở Bỉ, Hà Lan, Pháp và Italia. Danh sách khoảng 300 thành viên của mạng lưới này luôn được ông cất giữ trong đầu. Thông qua nhóm của Leopold Trepper, Liên Xô cũng nhận được tin tình báo từ Rudolf Rossler, mật danh “Lucy”.
Du kích Liên Xô chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. (Ảnh:corbisimages.com)
Là người Đức định cư tại Thụy Sĩ, Rudolf Rossler làm việc cho tình báo Xô-viết vì lý tưởng. Ông được coi là một trong những điệp viên giá trị nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Rudolf Rossler từng cung cấp cho Liên Xô tin tức quan trọng về chiến dịch ở vòng cung Kursk của phát-xít Đức năm 1943. Nguồn tin riêng của Rudolf Rossler cho đến thời điểm hiện tại vẫn là một ẩn số.
Tại phiên tòa quốc tế Nuremberg sau chiến tranh, Tham mưu trưởng chiến dịch của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Đức Quốc xã (OKW) Alfred Jodl nói rằng thông tin về Chiến dịch Kusk đến tay Mátxcơva trước cả khi nằm trên bàn của ông ta. Sau chiến tranh, Rudolf Rossler tiếp tục cung cấp cho Liên Xô thông tin thu thập được về Tây Đức, khiến ông bị bắt và chịu án 1 năm tại Thụy Sĩ. Ông qua đời chẳng bao lâu sau khi được thả vào năm 1958.
Trở lại với câu chuyện về Leopold Trepper, sau khi bị bắt, mạng lưới của ông đã bị phản gián Đức đánh sập gần như hoàn toàn. Ở Berlin, các điện báo viên Liên Xô được gọi là những “nghệ sĩ dương cầm”. Mạng lưới của Leopold Trepper liên quan đến ít nhất 10 “nghệ sĩ dương cầm”, bởi vậy còn có mật danh là “Dàn nhạc Đỏ”.
Phản gián Đức đã ép được một số điện báo viên của “Dàn nhạc Đỏ”, bao gồm cả Leopold Trepper, gửi tin giả về cho Mátxcơva. Phía Liên Xô không chỉ tin vào tin giả mà còn đề nghị cung cấp thêm. Sau khi trốn thoát, Leopold Trepper, với sự giúp đỡ của những người Cộng sản Pháp, đã tìm cách báo về Mátxcơva rằng mạng lưới của mình đã bị khống chế. Thông tin nhận được từ các điện báo viên đó cuối cùng đã được hiểu theo đúng bản chất.
Tháng 11-1944, hai điệp viên Xô-viết tiến hành theo dõi 24/24 giờ đoạn bờ biển Na Uy: “Phía chân trời thấy có khói. Một thiết giáp hạm. Thêm mấy khu trục hạm. Tốt. Ghi lại. Ta cần gửi điện tín về”. 12 tiếng sau, một sĩ quan tham mưu bước vào phòng của Trưởng ban Tình báo Hải quân Mikhail Voronsov, báo cáo. “Máy bay trinh sát xác nhận có tàu trong khu vực đó”, viên sĩ quan nói. “Các anh có thấy chiếc Tirpitz không? Người Anh đang tìm cách diệt nó suốt 3 năm nay. Hãy cho đồng minh của chúng ta thêm một cơ hội. Báo ngay cho người Anh tọa độ của chiếc thiết giáp hạm”, Mikhail Voronsov ra lệnh.
Tirpitz là một trong vài phương tiện chiến tranh uy lực của Hải quân Đức. Mặc dù khi đó (tháng 11-1944), vai trò của Tirpitz đã khá mờ nhạt trong cuộc chiến, nhưng sự có mặt của chiến hạm này ở bờ biển Na Uy vẫn đe dọa các đoàn vận tải từ Biển Bắc đến Liên Xô và ghìm chân một số lượng đáng kể tàu chiến Anh.
Video đang HOT
Ngày 12-11-1944, các máy bay ném bom Lancaster của Anh bay đến vịnh Tromso ở Na Uy. Người Đức không hay biết gì về cuộc không kích sắp diễn ra. Hai quả bom khổng lồ Tallboy đã rơi trúng mạn trái của Tirpitz, tạo một lỗ lớn trên vỏ tàu. Khi nước tràn vào, chiếc Tirpitz nặng nề nghiêng dần rồi lật úp. Tirpitz bị đánh chìm khiến 1.000 trong số 1.700 thủy thủ đoàn thiệt mạng. Đó là chiếc đinh cuối cùng đóng lên cỗ quan tài của Hải quân Hitler.
Kể từ mùa hè năm 1941, Liên Xô đã có điệp viên cài cắm tại Na Uy, bao gồm các đơn vị thu thập tin tức tình báo cho Hạm đội Bắc Hải. Họ cũng tuyển dụng “chân rết” từ cộng đồng người bản địa và cộng tác với quân kháng chiến Na Uy. Một số điệp viên Na Uy được gửi tới trại huấn luyện Xô-viết. Tại đó, họ được hướng dẫn cơ bản về liên lạc điện đài và thu thập tin tình báo.
Điệp viên sau đó được đưa về Na Uy bằng tàu ngầm. Khi màn đêm buông xuống, họ sẽ đổ bộ xuống một bờ biển hẻo lánh. Nhiệm vụ của các điệp viên là theo dõi các đồn, bốt, hoạt động chuyển quân và tiếp vận của Đức. Họ cũng được lệnh tìm kiếm các tàu chiến Đức neo trong các vịnh biển Na Uy và chuyển tin tức ấy về Murmansk. Không quân Liên Xô và Anh có thể dùng tin tình báo này để không kích các mục tiêu có giá trị của Đức ở Na Uy và Phần Lan.
Lầm tưởng của Mỹ – Anh
Sau khi nước Đức đầu hàng tháng 5-1945, nhiều người đã có thể ăn mừng nhẹ nhõm nhưng cơ quan tình báo vẫn không thể xả hơi. Việc thiếu niềm tin với nhau bắt đầu nổi lên khi kẻ thù chung đã bị đánh bại.
Tháng 4-1945, Thủ tướng Anh Winston Churchill ra lệnh cho Bộ Tham mưu của mình nghiên cứu khả năng tấn công Liên Xô bằng chiến dịch mang mật danh “Unthinkable”. Cuộc nghiên cứu được tiến hành bởi Ban Tham mưu hỗn hợp các quân chủng Anh.
Một kịch bản được vạch ra, theo đó 47 sư đoàn Anh và Mỹ chiến đấu cùng quân đội Ba Lan và 12 sư đoàn Đức được tái vũ trang sẽ tiến hành cuộc tấn công bất ngờ vào lực lượng Hồng quân ở Tây Bắc châu Âu. Bộ Tham mưu của Winston Churchill kết luận rằng, nước Anh sẽ phải tiến hành một cuộc chiến kéo dài và nhiều tổn thất, trong khi khả năng chiến thắng vẫn còn là điều đáng nghi ngờ. Nhận xét về kế hoạch này, Thủ tướng Winston Churchill nói rằng đây là một biện pháp phòng ngừa cho một tình huống mang tính giả thuyết cao.
Ngày 18-5-1945, Tùy viên quân sự Liên Xô ở Luân Đôn, Thiếu tướng Ivan Skliarov, đã chuyển thông tin về Chiến dịch tối mật “Unthinkable” về cho Mátxcơva. Nguồn tin của Thiếu tướng Ivan Skliarov là điệp viên X mà danh tính cho đến nay vẫn còn là một bí mật. Trong vài tuần sau đó, cũng chính điệp viên này đã chuyển cho Thiếu tướng Ivan Skliarov nhiều thông tin có giá trị về Chiến dịch “Unthinkble”, bao gồm cả quy mô lực lượng Anh và Mỹ tham gia.
Tháng 6-1945, Nguyên soái G. Zhukov nhận được chi tiết về kế hoạch này và lập tức bố trí lại lực lượng Xô-viết ở Đông Đức. Ông ra lệnh cho Hồng quân củng cố phòng thủ và theo dõi sát sao lực lượng của đồng minh phương Tây. Winston Churchill biết rõ khả năng của Hồng quân vượt trội so với Anh-Mỹ và quan trọng là dư luận không đồng tình cho một cuộc chiến như vậy vào năm 1945. Bản thân người Mỹ lại đang quan tâm hơn đến việc nhờ Liên Xô giúp đánh phát-xít Nhật Bản. Thế là Chiến dịch “Unthinkable” chỉ dừng lại ở đó.
Tháng 7-1945, trong Hội nghị Postdam, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã bóng gió đề cập với Stalin rằng Mỹ đã phát triển được một thứ vũ khí mới có sức hủy diệt phi thường. Nhưng phản ứng của nhà lãnh đạo Xô-viết đã khiến Tổng thống Mỹ sững người. “Ông ta còn không thèm hỏi lại”, Harry Truman sau này thuật lại với vẻ ngạc nhiên. Lúc ấy, các nguyên thủ Anh và Mỹ cho rằng, Stalin tỏ ra thờ ơ đơn giản là vì ông không hiểu về tầm quan trọng của điều ông được thông báo.
Nhưng họ đã lầm!
Kể từ năm 1942, tình báo Xô-viết đã thu thập tin tức về chương trình bom nguyên tử của Đồng Minh. Có hơn 10 điệp viên cung cấp tin cho Liên Xô. Nhờ nỗ lực của họ, Liên Xô đã thử quả bom nguyên tử đầu tiên của mình ngay từ năm 1949.
(Kỳ 4: Lưỡi dao nhọn trong lòng địch)
Theo Đặng Lâm Vũ
Quân đội Nhân dân
Kỳ 2: Những người đảo ngược cuộc chơi
Việc liên lạc trực tiếp với phần lớn số điệp viên Xô-viết trước chiến tranh chỉ được nối lại vào năm 1945 khi Hồng quân tiến vào Đông Âu. Một trong những cách liên lạc mang tính đối phó tạm thời là thông qua những người đưa tin để chuyển đi các thông tin tối quan trọng.
Bẻ mã
Nếu như ở thời bình, người đưa tin có thể đi lại khắp châu Âu, thì trong thời chiến mọi chuyện lại khác hẳn. Họ không chỉ đối mặt với nguy cơ bị Gestapo (Cơ quan Mật vụ của Đức Quốc xã) bắt giữ, mà còn có thể bị thiệt mạng bởi "tên bay đạn lạc".
Trong khi đó, tại Trung Quốc và Nhật Bản, các điệp viên Xô-viết vẫn hoạt động tích cực. Một vài điệp viên nằm vùng bất hợp pháp tiếp tục hoạt động trong vùng tạm chiến ở Pháp, Bỉ và Hà Lan. Tình báo Xô-viết cũng vẫn khá hiệu quả ở Mỹ, Anh và các quốc gia trung lập như Thụy Điển và Thụy Sĩ.
Điệp viên huyền thoại Richard Sorge. (Ảnh: historynet.com)
Tháng 7-1941, tức là ba tuần sau khi phát-xít Đức tấn công Liên Xô, nhìn bên ngoài, kho trữ cá gần bến cảng ở thủ đô Stockholm (Thụy Điển) vẫn trông bình thường như những tòa nhà xung quanh. Nhưng bên trong đó lại chứa đựng một bí mật. Đây là trụ sở của Ban Mã hóa và Giải mã của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Thụy Điển.
Allan Nyblad, một người đưa tin của Bộ Chiến tranh Thụy Điển đang cân nhắc phải làm gì. Ông được Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao cho nhiệm vụ chuyển đi các giấy tờ khẩn cấp và quan trọng nhất. Allan Nyblad là người tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc và chỉ trao "gói hàng" của mình tận tay người nhận theo lệnh, điều đó đã gây được ấn tượng mạnh với Bộ trưởng Chiến tranh Thụy Điển. Tuy nhiên, chính quyền Thụy Điển không biết rằng, Allan Nyblad làm việc cho tình báo Liên Xô.
Khi ấy, để thuận tiện cho việc đi lại, xe đạp của người đưa tin được gắn biển số đặc biệt, tức là sẽ không bị cảnh sát địa phương chặn lại. Một hôm, sau khi nhận được "gói hàng" phải gửi đến Bộ Tổng tham mưu, Allan Nyblad đạp xe qua một khu nhà kho yên tĩnh rồi đột ngột ngoặt vào một ngõ vắng vẻ. Sau khi chắc chắn không bị ai theo dõi, ông tháo biển số xe đặc biệt ra và thay bằng biển xe thường. Ông đến một ngôi nhà hai tầng rồi bước vào gặp Semyon Starostin, điệp viên Xô-viết mật danh "Kent".
Vỏ bọc của Semyon Starostin bao gồm chức danh giám đốc một công ty tổ chức du lịch tại Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch và trưởng đại diện hãng hàng không quốc gia Liên Xô Aeroflot. Tháng 11-1941, ông quay về Liên Xô khi một "chân rết" của ông bị bắt.
Khi tất cả các tài liệu do Allan Nyblad mang đến đã được chụp xong, Semyon Starostin bỏ hết giấy tờ vào một phong bì mới. Ông có trong tay rất nhiều con dấu của các cơ quan Thụy Điển để gửi phong bì đi trót lọt. Nhờ mạng lưới của điệp viên "Kent", Mát-xcơ-va nhận được báo cáo hằng ngày về hoạt động của địch dọc khắp tuyến mặt trận phía Đông do người Thụy Điển vẫn theo dõi phía phát-xít Đức và đã "bẻ mã" được họ.
Năm 1940, Thụy Điển nghi ngờ phát-xít Đức có kế hoạch xâm lược nước mình. Stockholm tìm cách phát hiện trước ý đồ của Hitler. Chỉ trong vòng 2 tuần cặm cụi với độc bút chì và giấy, Giáo sư toán học người Thụy Điển Arne Beurling đã bẻ được mật mã quân sự và ngoại giao của phát-xít Đức. Điều này cho phép Thụy Điển giải được các liên lạc đã mã hóa của phát-xít Đức và với điệp viên "Kent", tất cả những gì người Thụy Điển biết thì Mátxcơva cũng biết.
Tháng 1-1942, Allan Nyblad bị phía Thụy Điển bắt và bị kết án 12 năm tù khổ sai. Nhưng đến lúc đó, Mátxcơva đã có được thông tin làm cách nào Thụy Điển bẻ được mật mã của Đức. Đến tháng 6 năm đó, khi Đức phát hiện ra Thụy Điển đã bẻ được mật mã, phía Liên Xô cũng đã có thể tự bẻ khóa được hệ mã mới của Đức.
Nguồn tin vô giá về toan tính của Nhật Bản
Ngày 18-10-1941, quan hệ Nhật Bản và Liên Xô đang trong trạng thái "hòa hoãn đầy căng thẳng". Rạng sáng hôm đó, cơ quan phản gián Nhật Bản mở một chiến dịch vây bắt mạng lưới điệp viên Liên Xô. Một trong những người bị bắt là Richard Sorge. Trong khi Richard Sorge bị đưa đi, căn hộ của ông bị lục soát kỹ lưỡng. Tại đây, mật vụ Nhật tìm thấy những tài liệu buộc tội ông như máy ảnh và một xấp ảnh chụp tài liệu.
Richard Sorge sinh ra tại Đông Nam nước Nga, nhưng ngay từ bé ông đã cùng gia đình chuyển tới sống ở Đức. Sau khi chiến đấu trong quân đội Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Richard Sorge trở thành một người Cộng sản nhiệt thành và đến Mátxcơva. Tại đây, ông được tình báo quân sự Xô-viết tuyển dụng rồi gửi trở lại Đức dưới vỏ bọc nhà báo và cảm tình viên Quốc xã. Điều này đã đem lại nhiều thuận lợi cho ông cho đến tận tháng 10-1941, khi ông bị người Nhật bắt. 3 năm sau đó, Richard Sorge bị treo cổ. Đến năm 1964, ông được truy tặng phần thưởng Nhà nước cao quý nhất là danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Mạng lưới của Richard Sorge bao gồm 32 điệp viên người Nhật Bản, 4 người Đức, 2 người Nam Tư và 1 người Anh, trong đó đáng chú ý có điện đài viên người Đức Bruno Wendt, nhà báo người Nam Tư Branko Vukelic và nhà báo người Nhật Bản Hatsumi Ozaki, một cố vấn của Thủ tướng Nhật Bản Konoe. Một nguồn tin đáng giá khác của mạng lưới là Eugen Ott, Đại sứ Đức tại Nhật Bản và là một trong những người "đặt trọn niềm tin" vào Richard Sorge.
Việc Richard Sorge bị bắt và nhóm của ông bị phát hiện là tổn thất nặng đối với tình báo Liên Xô. Ông là một nguồn tin vô giá về các toan tính của Nhật Bản và Đức tại Viễn Đông. Chiến công lớn nhất của Richard Sorge là xác minh được việc Nhật Bản không có kế hoạch tấn công Liên Xô trong năm 1941 như ban lãnh đạo Liên Xô lo ngại.
Tháng 9-1941, từ Tokio, ông gửi về một điện tín với nội dung: "Theo lời Ozaki, Bí thư Nội các, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định sẽ không có hành động chống Liên Xô trong năm nay nhưng quân đội vẫn đóng ở Mãn Châu để có thể tấn công vào mùa Xuân tới nếu Liên Xô bị Đức đánh bại. Sau ngày 15-9, vùng Viễn Đông của Liên Xô có thể được xem là an toàn, không bị Nhật tấn công".
Thông tin vô cùng quan trọng này đến vào lúc quân Đức vừa tung đòn tấn công tổng lực vào Mátxcơva. Nó cho phép Bộ Tổng tham mưu quân đội Xô-viết rút nhanh 32 sư đoàn từ Siberi và Viễn Đông về cứu nguy cho thủ đô Liên Xô. Ngày 5-12-1941, các sư đoàn này dẫn đầu cuộc tổng phản công đẩy quân Đức lùi xa khỏi cửa ngõ Mátxcơva. Đó là một chiến thắng quan trọng mang công lớn của Richard Sorge.
(Kỳ 3: "Dàn nhạc Đỏ")
Theo Đặng Lâm Vũ
Quân đội Nhân dân
Nhiều nước châu Âu kỷ niệm Ngày Chiến thắng Nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai (9/5/1945 - 9/5/2015), những ngày qua, nhiều hoạt động kỷ niệm được tổ chức trọng thể tại Nga, Thụy Sĩ và Na Uy. Xe tăng T34 diễu hành trên Quảng trường Đỏ ngày 4/5, chuẩn bị cho lễ diễu binh. Ảnh: TTXVN Tại Nga,...