Kinh tế Việt Nam sau 40 năm tái thiết dưới góc nhìn quốc tế
Trên chặng đường dài kể từ khi thống nhất đất nước với không ít chông gai và thử thách, cả dân tộc Việt Nam đã chung tay tái thiết, phát triển nền kinh tế.
Ảnh minh họa. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)
Dưới góc nhìn của quốc tế, Việt Nam được coi là một câu chuyện thành công về quá trình phát triển, với những thành tựu to lớn đã đạt được trong thời gian qua và với tiềm năng để trở thành một “con hổ” châu Á trong tương lai.
Liên hợp quốc: Việt Nam đã trải qua một thời kỳ phát triển kinh tế- xã hội nhanh chóng
Bài “Vài nét về Việt Nam” trên website của Liên hợp quốc đã tổng kết lại những thành công của Việt Nam trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đã chuyển sang tập trung tái thiết và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do sự tàn phá khốc liệt của nhiều năm chiến tranh, do những yếu kém về chính sách và môi trường quốc tế có nhiều khó khăn, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng kéo dài trong những năm 1970 và 1980.
Để vượt qua những khó khăn đó, quá trình Đổi mới đã được khởi xướng năm 1986, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên sở hữu nhà nước sang một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên thị trường, dân chủ hoá đời sống xã hội thông qua việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, và tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia khác trên thế giới.
Theo Liên hợp quốc, nhờ thực hiện những cải cách nêu trên, Việt Nam đã đạt được những bước tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Kể từ năm 1990, GDP của Việt Nam tăng gần gấp ba lần, tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm ước đạt 7,5% và liên tục tăng lên cho đến khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra năm 2008.
Bên cạnh đó, tỷ lệ phần trăm dân số sống dưới chuẩn nghèo đã giảm từ con số ước tính 58% năm 1993 xuống dưới 12% năm 2009. Các nguồn lực phát triển trong nước đã tăng lên, thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng mạnh mẽ.
Liên hợp quốc cho rằng các Chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội trong hai giai đoạn 1991-2000 và 2001-2010 đã giúp Việt Nam vươn mình từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp thành một nền kinh tế dựa trên thị trường và phát triển nhanh chóng, ngày càng hội nhập sâu rộng vào cộng đồng khu vực và toàn cầu.
Và Chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn mới 2011-2020 hướng tới thiết lập một nền tảng cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hóa hiện đại vào năm 2020.
Video đang HOT
Liên hợp quốc ghi nhận, những chiến lược và nỗ lực của Việt Nam đã đưa đất nước từ chỗ là một trong những quốc gia nghèo khó đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình và tăng trưởng nhanh chóng.
Nhìn chung, những tiến bộ đạt được của Việt Nam trong những năm qua chủ yếu bắt nguồn từ những cải cách kinh tế được duy trì liên tục, sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới và một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
WB: Việt Nam là một câu chuyện thành công về quá trình phát triển
Trong “Tổng quan về Việt Nam” trên website của mình, Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá công cuộc Đổi mới kinh tế và chính trị bắt đầu triển khai từ năm 1986 đã đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới với thu nhập bình quân đầu người dưới 100 USD, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng 25 năm với thu nhập đầu người lên tới 1.960 USD năm 2013.
Việt Nam đã hoàn thành bốn trong 10 Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và dự kiến sẽ hoàn thành thêm ba mục tiêu nữa trong năm 2015. Trong một vài thập niên vừa qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận về giảm nghèo. Hiện nay, tỷ lệ người nghèo đã giảm xuống dưới 10% từ mức 60% trong thập niên 1990.
Theo WB, trong vòng 10 năm qua, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 6,4%/năm. Tuy tăng trưởng kinh tế còn thấp và nằm dưới mức tiềm năng nhưng Việt Nam đã thành công trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. Lạm phát giảm từ mức đỉnh 23% vào thời điểm tháng 8/2011 xuống còn 4,2% tháng 8/2014. Xuất khẩu vẫn là cỗ máy quan trọng thúc đẩy tăng trưởng.
WB lưu ý đến việc Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam tập trung vào cải cách cấu trúc, bền vững môi trường, bình đẳng xã hội cũng như các vấn đề mới nổi trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. Mục tiêu tổng quát với Việt nam là phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
WB đề cập đến Nghị quyết của Chính phủ ban hành sau phiên họp thường kỳ tháng 8/2014, trong đó một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô. Nghị quyết cũng nhấn mạnh cần phải thực hiện tái cơ cấu kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh, thúc đẩy các mô hình tăng trưởng sáng tạo, cải cách hành chính và chống tham nhũng.
ADB: Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất kể từ năm 1990
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Việt Nam đã là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới kể từ năm 1990 và đạt thu nhập trung bình vào năm 2010. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế đã suy giảm từ mức trung bình 7,3% trong những năm 2000-2007 xuống 5,7% trong 2008-2013, do những cải cách cơ cấu diễn ra chậm và tình trạng thiếu ổn định trên toàn cầu. ADB khuyến khích chính phủ nhắm tới mục tiêu đưa tăng trưởng kinh tế đạt 7-8% trở lại trong những năm tới.
Trong chuyến thăm Việt Nam vào năm ngoái, Chủ tịch ADB Takehiko Nakao nói rằng để củng cố những thành tựu đạt được và phục hồi tăng trưởng kinh tế cao và toàn diện, các cải cách cơ cấu, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhà nước và lĩnh vực ngân hàng, cần được đẩy mạnh, trong khi chính phủ cũng cần quản lý nợ công bằng cách tăng nguồn thu thuế và hợp lý hóa các khoản chi tiêu công.
Ông Nakao đã chỉ ra rằng khu vực tư nhân có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy năng lực cạnh tranh của Việt Nam và tránh bẫy thu nhập trung bình. Theo ông, Việt Nam cần khai thác tối đa những lợi ích từ việc hội nhập kinh tế toàn cầu thông qua tăng cường thương mại và đầu tư trên cơ sở hội nhập sâu hơn vào Cộng đồng Kinh tế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các thỏa thuận thương mại tự do.
Báo cáo triển vọng phát triển châu Á năm 2015 mới công bố của ADB nhấn mạnh, trong ngắn hạn Việt Nam cần ưu tiên tăng cường hệ thống ngân hàng, vạch chiến lược rõ ràng để giải quyết vấn đề nợ xấu, tăng cường cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và thúc đẩy việc thoái vốn khỏi các doanh nghiệp này.
Báo cáo nhận định, khu vực tư nhân là động lực chính giải phóng tiềm năng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam cần tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu để khai thác tối đa tiềm năng cho tăng trưởng.
Bloomberg: Việt Nam có tiềm năng để trở thành “con hổ” châu Á
Theo hãng tin Bloomberg, công cuộc Đổi mới bắt đầu vào những năm 1980 đã đ ưa tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vượt mức 7%. Sau những năm gần đây tăng trưởng giảm sút khi các doanh nghiệp nhà nước đứng trước khối nợ xấu, tiền đầu tư từ các tập đoàn như Samsung Electronics Co. and Intel Corp. đang tạo ra những thế mạnh để kinh tế Việt Nam một lần nữa cất cánh, trở thành “con hổ” của châu Á.
Hãng tin trên dẫn báo cáo “Thế giới năm 2050″ của hãng kiểm toán PricewaterhouseCoopers LLP (PwC), trong đó cho rằng Việt Nam có tiềm năng để trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong giai đoạn 2014-2050.
Theo báo cáo của PwC, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể đạt nhịp độ 5,3% trong giai đoạn 2014-2050, trong khi mức tăng trưởng của Trung Quốc có thể giảm xuống dưới 4%.
PwC cho rằng không chỉ là quốc gia Đông Nam Á có lợi thế về chi phí sản xuất rẻ hơn thay thế nước láng giềng Trung Quốc, Việt Nam còn là điểm đến ổn định về chính trị cho những doanh nghiệp Nhật Bản đang muốn mở rộng đầu tư trong khu vực trong bối cảnh xảy ra những bất đồng Trung-Nhật.
Bloomberg đã chỉ ra rằng kinh tế Việt Nam đang cho thấy những dấu hiệu của sự bứt phá: Năm 2014, Việt Nam đã vượt qua các đối tác trong khu vực để trở thành nước dẫn đầu trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á về xuất khẩu sang Mỹ.
Theo số liệu của Cơ quan Đầu tư nước ngoài, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tăng mạnh trong 14 năm qua, đạt 12,35 tỷ USD vào năm 2014, tăng 7,4% so với năm 2013 và so với 2,4 tỷ USD vào năm 2000.
Bloomberg cũng đề cập đến việc các nhà lãnh đạo Việt Nam đang nỗ lực giải quyết những vấn đề gai góc nhất của nền kinh tế như nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước với kế hoạch mà một quan chức Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) đã nói đến trong một cuộc phỏng vấn mới đây là sẽ bán một lượng cổ phiếu kỷ lục trong doanh nghiệp nhà nước trong năm nay.
Theo Vietnam
Thái Lan muốn mở công xưởng ô tô tại Việt Nam
Chủ tịch Viện ô tô Thái Lan đã bày tỏ mong muốn ngành ô tô của Việt Nam và Thái Lan cùng nhau hợp tác để phát triển thay vì cạnh tranh với nhau.
Ý kiến này được ông Vichai Jirathiyut, Chủ tịch Viện ô tô Thái Lan, nêu ra tại buổi tọa đàm "Tăng cường giá trị sản xuất ô tô và xe máy của Việt Nam trong khu vực ASEAN" diễn ra ở TPHCM chiều 2/4 với sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện và lắp ráp ô tô Việt Nam.
Ông Vichai Jirathiyut chia sẻ thông tin tại buổi tọa đàm.
Theo ông Vichai, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong những năm gần đây tăng trưởng cao và riêng năm ngoái lắp ráp và sản xuất ô tô trong nước đạt khoảng 120.000 xe, tăng 29% về lượng và tăng đến 35% về doanh số bán hàng so với năm trước đó (năm 2014 thị trường trong nước tiêu thụ được 158.000 ô tô các loại, kể cả ô tô nhập khẩu nguyên chiếc - PV). Ông Vichai cho rằng đây là con số tăng trưởng khá ấn tượng trong ngành ô tô nói chung và ông tin rằng thị trường ô tô Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới bởi số lượng người dân sở hữu ô tô còn rất thấp.
Ông Vichai so sánh, thị trường Thái Lan có 67 triệu dân và đa số đang ở độ tuổi về già nhưng đã tiêu thụ đến 880.000 xe/năm; trong khi dân số Việt Nam hiện đã vượt 90 triệu người, đa số còn trẻ nên chắc chắn sẽ có nhu cầu sắm ô tô cao hơn.
"Với những chính sách hỗ trợ của Chính phủ, ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam được dự báo sẽ sản xuất đạt 220.000 xe vào năm 2020 và sẽ tăng lên đến 1,5 triệu xe vào năm 2035. Điều này sẽ làm cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển nhanh trong cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC)", ông Vichai nhận định.
Chính sách hỗ trợ của Chính phủ cộng với nguồn lao động với chi phí thấp, theo ông Vichai, sẽ là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển ngành công nghiệp ô tô. Tuy nhiên, ông cho rằng Việt Nam cần khắc phục điểm yếu về phát triển nhà cung cấp công nghiệp hỗ trợ cho ngành.
Cũng theo ông Vichai, hiện trong khối các nước ASEAN, Thái Lan được đánh giá là nước có ngành công nghiệp ô tô phát triển, cạnh tranh cao và có tiêu chuẩn khí thải cao nhất. Thái Lan định hướng phát triển dòng xe bán tải một tấn và dòng xe sinh thái thành các dòng xe cạnh tranh.
Ông Vichai cho rằng, các nhà sản xuất Thái Lan đang nắm giữ nhiều công nghệ tiên tiến có lợi cho các nhà sản xuất Việt Nam trong thị trường chung AEC. Các dây chuyền công nghiệp tự động chưa đầy đủ ở Việt Nam cho thấy hai ngành công nghiệp ở Việt Nam và Thái Lan có thể hỗ trợ lẫn nhau. "Điều này có lợi cho Việt Nam và Thái Lan để cùng thảo luận và chia sẻ thông tin về việc phát triển ngành chế tạo ô tô và phụ tùng công nghiệp", ông nói.
Mặc dù ông Vichai có nhiều nhận định về lợi thế phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, nhưng giới phân tích và các doanh nghiệp kinh doanh ô tô trong nước lo ngại Việt Nam sẽ sớm trở thành nơi tiêu thụ ô tô nhập khẩu trong khu vực do Việt Nam bắt đầu cắt giảm thuế theo cam kết của Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Với tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp ô tô trong nước rất thấp, chỉ đạt từ 10-30% tùy theo dòng xe, thì khi thuế suất nhập khẩu xe nguyên chiếc bằng 0% vào năm 2018, việc nhập khẩu phụ tùng và lắp ráp tại Việt Nam rõ ràng sẽ đắt hơn nhập khẩu nguyên chiếc từ Thái Lan hoặc Indonesia.
Sau hơn 50 năm phát triển công nghiệp ô tô, hiện Thái Lan có 18 công ty lắp ráp và sản xuất với 20 thương hiệu ô tô các loại, công suất thiết kế lên đến 2,8 triệu xe/năm. Hàng năm Thái Lan sản xuất trên 1,8 triệu xe, trong đó khoảng 1 triệu xe xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Để sản xuất 120.000 xe, Việt Nam có tới 17 công ty lắp ráp và phân tán trên ba vùng Bắc, Trung, Nam. Điều không hợp lý là dù có nhiều nhà máy lắp ráp nhưng ngành công nghiệp hỗ trợ lại rất ít, chỉ có 33 công ty công nghiệp hỗ trợ cấp 1 và 181 công ty cấp 2. Những nghịch lý này là nguyên nhân quan trọng cản trợ sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Theo Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Việt Nam sẽ có lợi, nếu tận dụng cơ hội này Dự báo, trong bối cảnh hiện nay, nhiều DN Nhật sẽ đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài, theo đó, hoàn toàn có khả năng Việt Nam sẽ đón nhận một làn sóng mới từ các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong thời gian qua, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã có nhiều quyết sách mới từ quốc phòng tới kinh tế....