Kinh hãi, chuột ’sát thủ’ ăn cả thịt đồng loại, biết hú như chó sói
Chuột châu chấu chuyên ăn thịt bọ cạp, rết độc, có phát cắn như máy chém, miễn nhiễm với nọc độc và biết hú như chó sói.
Ảnh minh họa.
Cú tuyết sát thủ: Sứ giả của Harry Potter, có thể thực hiện những cú bố nhào nặng 80kg để săn chuột
Có rất nhiều cú sứ giả trong cuốn sách gốc của 'Harry Potter', chẳng hạn như cú sừng, cú rít, cú chuồng, cú gỗ xám,...
Những con cú này có thể du hành giữa thế giới phép thuật và thế giới thực lại là một con cú đen xám khổng lồ, thường được gọi là cú tuyết sát thủ.
Cú ba chi chính trong thế giới chim ăn thịt, trong số đó có các thành viên của gia đình hình cú, và cú tuyết sát thủ là một thành viên của chim ăn thịt hình cú. Giống như những loài cú khác, cú tuyết sát thủ (Great Great Owl) có thị lực tuyệt vời và có thể phát hiện ra những loài gặm nhấm nhỏ cách xa hàng trăm mét trên cây.
Ngoài ra, Great Great Owl có thính giác tốt nhất trong tất cả các loài chim ăn thịt dạng cú khác, chỉ cần một con chuột dưới lớp tuyết dày kêu lên một tiếng nhỏ, những con cú tuyết sát thủ có thể sà xuống và tóm gọn nó, bởi vậy người ta còn gọi nó với cái tên "Sát thủ bóng đêm".
Cú tuyết sát thủ có siêu thính giác và có thể phán đoán chính xác vị trí của con mồi, giống như một radar sinh học cực mạnh. Vậy siêu thính giác của nó đến từ đâu?
Video đang HOT
Khứu giác nhạy bén của cú tuyết sát thủ được hưởng lợi từ "khuôn mặt lớn" giống như chiếc bánh của chúng. Trên mặt của nó có rất nhiều lông mảnh và chắc, các lớp lông tập trung vào mắt và tỏa ra vòng tròn bên ngoài, tạo thành một "khuôn mặt lớn" và cấu trúc độc đáo này cho phép nó tiếp nhận sóng âm thanh tốt hơn.
Giống như mèo, cú tuyết sát thủ cũng có khuôn mắt hướng về phía trước, giúp chúng quan sát con mồi trước mặt tốt hơn, ngoài ra cổ của chúng có thể xoay khoảng 180 độ, thông thường chỉ cần xoay đầu là có thể quan sát xung quanh mà không cần xoay người.
Loài cú sở hữu đôi tai lớn nhất trong tất cả các loài chim, nhưng thay vì sở hữu loa tai như nhiều loài động vật khác, chúng lại được thay thế bằng lớp lông dày, cú tuyết sát thủ cũng không ngoại lệ, tuy nhiên tai của nó lại được sắp xếp không đối xứng, với một bên cao và một bên thấp.
Ống tai phải hẹp hơn ống tai trái và cả hai tai có thể tiếp nhận âm thanh từ cả hai bên cùng một lúc. Ngoài ra, xương tai của cú tuyết sát thủ rất phát triển, có thể dùng để định vị đường chéo hình tam giác, tăng khả năng phân biệt sóng âm.
Chính nhờ "khuôn mặt" to lớn, đôi tai và đôi mắt đặc biệt như vậy mà cú tuyết sát thủ có thể trở thành loài mạnh nhất trong số các loài chim ăn thịt thuộc họ cú.
Lông của cú tuyết sát thủ rất mịn và mềm, cũng có thể đóng một vai trò nhất định trong việc giảm tiếng ồn khi bay. Kết quả là rất ít con mồi có thể trốn thoát khi cú tuyết sát thủ săn mồi.
Sải cánh của những con cú tuyết sát thủ trưởng thành có thể đạt khoảng 1,55 mét và chiều cao có thể đạt tới hơn 70 cm, tuy nhiên chúng lại khá nhẹ, trọng lượng trung bình của một con cú tuyết sát thủ chỉ từ 2 đến 3 kg, trọng lượng tối đa của chim mái có thể lên tới 4 kg.
Lý do tại sao cú tuyết sát thủ sở hữu vẻ ngoài to lớn, nhưng trọng lượng lại rất nhẹ là bởi vì bộ xương của nó rất nhỏ, và bộ lông của nó quá mịn và mềm, cơ thể to lớn của nó được hỗ trợ bởi lông vũ, như thể đang mặc một chiếc áo quá khổ.
Với chiếc áo khoác dày này, chúng có thể đối phó với thời tiết cực kỳ lạnh, sau khi mùa đông lạnh giá đến, cú tuyết sát thủ không di chuyển về phía nam như các loài chim di cư khác mà chọn ở lại địa phương cho mùa đông, chúng là một loài chim cư trú điển hình.
Không giống như chiến lược tăng mỡ để chống lạnh vào mùa đông, lông của cú tuyết sát thủ vào mùa đông sẽ dày hơn đủ để chống lại cái lạnh thấu xương, bàn chân của nó cũng sẽ được bao phủ bởi lông vũ, như thể đang đi một đôi ủng bằng lông.
Mặc dù kích thước lớn nhưng động tác của cú tuyết sát thủ lại rất nhạy bén và chính xác, trong khu rừng lạnh giá vào mùa đông, có rất nhiều loài gặm nhấm sống dưới tuyết, chúng ngụy trang và ẩn nấp rất giỏi.
Nhưng cú tuyết sát thủ không chỉ có thể phát hiện con mồi dưới tuyết bằng hệ thống radar sinh học của riêng mình, mà còn có đủ sức mạnh để lao xuyên qua lớp tuyết phủ cứng và tóm lấy con mồi ẩn mình dưới tuyết.
Cú tuyết sát thủ thường đứng trên ngọn cây, nhìn xuống khu rừng phía dưới, tìm kiếm manh mối của con mồi, khi phát hiện ra con mồi, nó lập tức từ trên cây bay lên và bổ nhào xuống, lao thẳng vào lớp tuyết phủ, sức nước mạnh từ những cú bổ nhào này có thể lên tới 80 kg.
Trên thực tế, loài cú này có bản tính hung dữ và hầu như không có kẻ thù tự nhiên khi trưởng thành, nhưng những chú chim con mới nở lại rất cần sự chăm sóc cẩn thận của chim bố mẹ.
Cú tuyết sát thủ là những bậc cha mẹ rất tận tụy, sau khi con non nở ra và chui ra khỏi vỏ, chim cú mái sẽ ở bên cạnh chim con để bảo vệ sự an toàn của chim con, còn chim trống sẽ ra ngoài bắt mồi và mang nó về. Thông thường, chim trống sẽ xé con mồi do mình mang về và mớm cho chim con ăn từng chút một, và nó sẽ chỉ ăn một miếng để suy trì sức lực và săn con mồi tiếp theo.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng những con mái trong giai đoạn này giảm gần 30% trọng lượng cơ thể trong vòng một tháng và những con chim non lại phát triển rất nhanh nhờ sự cống hiến quên mình của chim bố mẹ.
Sau ba tuần, mặc dù chim con vẫn chưa thể tự đứng một mình nhưng chúng có thể di chuyển một quãng ngắn trong ổ, chúng cũng dần mọc lông sẫm màu trên mặt và râu đen ở hai bên mỏ. Sau hơn một tháng, chim non đã có đầy đủ lông cánh và có thể bay những quãng đường ngắn.
Giai đoạn này khá nguy hiểm đối với chim non, xung quanh ổ sẽ đầy phân, mùi phân có thể thu hút những kẻ săn mồi nhòm ngó.
Bởi vậy, lúc này chim bố mẹ sẽ chuyển chim non đến nơi an toàn hơn, tuy nhiên trong quá trình này, một số con non sẽ kém may mắn, bị rơi thẳng xuống đất mà chết hoặc bị những kẻ săn mồi tìm đến. Do đó, tỷ lệ sống của những con chim non bên ngoài tự nhiên rất thấp, chỉ khoảng 20%.
Phát hiện loài bò sát biển khổng lồ mới Những phát hiện từ kỷ Jura muộn cho thấy, pliosaur có kích thước gấp đôi cá voi sát thủ. Tác phẩm của đồng tác giả nghiên cứu Megan Jacobs khi tưởng tượng một con khủng long cuối kỷ Jura. Theo một nghiên cứu gần đây, việc tình cờ phát hiện ra các mẫu hóa thạch lớn trong bảo tàng đã khiến các nhà...