Kiến nghị bố trí hơn 13.600 tỉ đồng làm hai đoạn vành đai 2 TP.HCM
Đó là thông tin mà Sở Giao thông vận tải TP.HCM vừa báo cáo lãnh đạo UBND TP về một số nội dung cấp bách liên quan đến lĩnh vực giao thông để trình HĐND TP trong kỳ họp tháng 3-2022.
Xe container vận chuyển hàng hóa vào cảng Cát Lái (TP Thủ Đức) – Ảnh: TỰ TRUNG
Theo đó, Sở Giao thông vận tải TP.HCM kiến nghị TP chỉ đạo Sở Kế hoạch và đầu tư khẩn trương nghiên cứu nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 đã được HĐND TP thông qua và nguồn dự kiến tăng thêm của TP, trình phương án đầu tư công hai dự án đường vành đai 2.
Việc đầu tư hai dự án của đường vành đai 2 không chỉ góp phần phát triển kinh tế – xã hội mà còn tạo sự đồng thuận của người dân, doanh nghiệp khi TP triển khai thu phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ tiện ích công cộng trong khu vực cảng biển.
Cụ thể, đối với đoạn từ cầu Phú Hữu đến xa lộ Hà Nội (dài 3,5km) có mức vốn dự kiến khoảng 8.591 tỉ đồng, trong đó chi phí xây dựng 1.660 tỉ đồng, còn lại là giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư. Đoạn từ xa lộ Hà Nội đến đường Phạm Văn Đồng (dài 2,8km) có mức vốn dự kiến khoảng 8.458 tỉ đồng, trong đó chi phí xây dựng 2.281 tỉ, chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng 5.515 tỉ đồng.
Dự kiến nhu cầu vốn cho hai dự án trên trong giai đoạn 2021 – 2025 khoảng 13.639 tỉ đồng (tương đương 80%). Phần kinh phí còn lại khoảng 3.410 tỉ đồng sẽ cân đối bố trí trong giai đoạn sau.
Video đang HOT
Tuyến đường vành đai 2 dài 64km hiện còn 3 đoạn dài 11km chưa được đầu tư. Tuyến đường quan trọng này khi được khép kín sẽ đảm nhận vai trò điều phối, hạn chế xe vào nội thành, kết nối các cảng biển, giảm ùn tắc cho các trục đường vào cảng như Đồng Văn Cống, Mai Chí Thọ.
Theo đề án thu phí hạ tầng cảng biển của TP.HCM, nguồn thu phí ước tính mỗi năm khoảng 3.000 tỉ đồng sẽ bổ sung cho ngân sách TP đầu tư các dự án mở rộng, làm thêm đường kết nối vào các cảng biển. Hiện hệ thống thu phí đã được vận hành thử nghiệm từ ngày 16-2 để chuẩn bị cho thu phí chính thức từ 1-4.
Bộ Công Thương nêu loạt giải pháp giải quyết ùn tắc tại cảng biển
Trả lời Công văn số 8823/BTC-TCHQ ngày 6/8/2021 của Bộ Tài chính về việc xin ý kiến dự thảo Thông tư Quy định về giám sát hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu chuyển cửa khẩu trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu ùn tắc tại cảng biển (dự thảo Thông tư), Bộ Công Thương nhấn mạnh, về cơ bản, nhất trí với dự thảo Thông tư.
Các xe container vận chuyển hàng hóa vào cảng Cát Lái. Ảnh minh họa: Tiến Lực/TTXVN
Tuy nhiên, việc ùn tắc hàng hóa tại cảng biển không chỉ do nguyên nhân của hàng hóa nhập khẩu và khi thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19 mới xảy ra.
Vì thế, để tạo điều kiện thuận lợi cho các cảng biển tránh việc ùn tắc hàng hóa xảy ra không chỉ do khi thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, Bộ Công Thương đề nghị sửa tên Thông tư thành: "Thông tư quy định về giám sát hải quan đối với hàng hóa chuyển cửa khẩu trong trường hợp hàng hóa ùn tắc tại cảng biển".
Đồng thời, đoạn cuối của phần căn cứ, đề nghị sửa đổi nội dung cho phù hợp với việc sửa đổi tên Thông tư nêu trên thành: "Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư quy định về giám sát hải quan đối với hàng hóa chuyển cửa khẩu trong trường hợp hàng hóa ùn tắc tại cảng biển".
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đề xuất sửa đổi điều 1 thành: "Thông tư này quy định về giám sát hải quan đối với hàng hóa chuyển cửa khẩu trong trường hợp hàng hóa ùn tắc tại cảng biển"; bổ sung đối tượng là "Doanh nghiệp chủ hàng".
Về cơ sở xác định hàng hóa ùn tắc tại cảng biển, Bộ Công Thương cho rằng, cơ sở xác định hàng hóa ùn tắc tại cảng biển là sản lượng hàng hóa tồn bãi đạt ngưỡng sức chứa thiết kế tối đa cho phép của cảng biển đã được doanh nghiệp kinh doanh cảng biển công bố.
Mặt khác, có văn bản của doanh nghiệp kinh doanh cảng biển về việc sản lượng hàng tồn bãi đạt ngưỡng sức chứa thiết kế tối đa cho phép của cảng biển được Chi cục Hải quan quản lý kiểm tra, xác nhận đồng ý cho áp dụng thực hiện Thông tư này.
Tại khoản 1 Điều 5 "Doanh nghiệp kinh doanh cảng biển nơi hàng hóa vận chuyển đi", đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm b thành: Chỉ thực hiện vận chuyển hàng hóa khi có sự chấp thuận của hãng tàu/đại lý hãng tàu hoặc chủ hàng đã xác lập quyền sở hữu hàng hóa với hãng tàu/đại lý hãng tàu và kế hoạch vận chuyển hàng hóa đã được Chi cục Hải quan nơi hàng hóa vận chuyển đi phê duyệt. Toàn bộ lô hàng, thuộc cùng một vận tải đơn, cùng thuộc một chủ hàng về cùng một cảng biển, cảng cạn, ICD để lưu giữ hàng hóa.
Đồng thời, Bộ Công Thương đề nghị sửa đổi điểm c thành: "Có văn bản thông báo cho Chi cục Hải quan quản lý kiểm tra về việc sản lượng hàng hóa tồn bãi đạt ngưỡng sức chứa thiết kế tối đa cho phép của cảng biển và xác nhận đủ điều kiện áp dụng Thông tư này".
Cùng với đó, sửa đổi điểm e thành: "Trong thời hạn 5 ngày làm việc sau thời gian thực hiện việc vận chuyển hàng hóa cần chuyển cửa khẩu, báo cáo quyết toán tình hình thực hiện việc vận chuyển hàng hóa (theo mẫu số 2 ban hành kèm Thông tư này)". Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đề nghị cân nhắc bỏ nội dung quy định tại các điểm d, e, g tại khoản 1 Điều 5 bởi hướng dẫn tại điểm đ khoản 1 Điều 5 Thông tư này đã cơ bản đáp ứng đầy đủ nội hàm các quy định của điểm d, e, g.
Việc báo cáo được thực hiện qua giao thức hải quan điện tử, sẽ giảm được các bước quy trình thực hiện cho các đơn vị liên quan và phù hợp với thực tiễn do khoảng cách về địa lý giữa điểm đi và điểm đến.
Tại Điều 6 về trách nhiệm của hãng tàu/đại lý hãng tàu, Bộ Công Thương đề nghị bổ sung nội dung: "Trường hợp chủ hàng đã hoàn tất thủ tục nhận hàng, xác nhận quyền chủ sở hữu hàng hóa với hãng tàu/đại lý hãng tàu, thì chủ hàng và doanh nghiệp kinh doanh cảng biển sẽ quyết định địa điểm cảng, ICD vận chuyển hàng hóa đến, sau khi được cơ quan hải quan phê duyệt đủ điều kiện áp dụng thông tư này. Chi phí vận chuyển phát sinh do các bên tự thỏa thuận.".
Bộ Công Thương lý giải, theo thông lệ, hàng hóa chuyển cảng đích là trách nhiệm của hãng tàu với chủ hàng, nên việc vận chuyển về cảng đích do hãng tàu hoặc tổ chức được hãng tàu ủy quyền thực hiện, khi hàng hóa được vận chuyển đến cảng đích và chủ hàng hoàn tất thủ tục xác nhận quyền chủ sở hữu với hãng tàu, thì hãng tàu mới hết trách nhiệm trên hợp đồng vận chuyển.
Theo quy định của Thông tư này, trường hợp chủ hàng hoàn tất thủ tục xác nhận quyền chủ sở hữu hàng hóa với hãng tàu, thì hãng tàu đã hết trách nhiệm, nên trách nhiệm thực hiện thủ tục hải quan và vận chuyển đến cảng, ICD để lưu giữ chờ thông quan theo Thông tư này sẽ do chủ hàng hoặc tổ chức được chủ hàng ủy quyền thực hiện.
Do đó, đề nghị làm rõ và bổ sung hướng dẫn đối với trường hợp nêu trên, chủ hàng phải cung cấp thêm chứng từ là Lệnh Giao hàng của hãng tàu và Giấy ủy quyền cho tổ chức đại diện thực hiện thủ tục hải quan và vận chuyển, trong hồ sơ Đề nghị vận chuyển về cảng, ICD chờ làm thủ tục thông quan cho cơ quan hải quan xét duyệt mà không cần ý kiến của hãng tàu.
Bộ Công Thương cũng đề nghị bỏ điểm b khoản 2 Điều 7 vì hàng hóa được vận chuyển bằng hình thức vận chuyển độc lập, nên khi hàng hóa đã tập kết đầy đủ tại điểm đến, cơ quan hải quan điểm đến xác nhận hàng hóa đã đến điểm đến bằng nghiệp vụ BIA trên hệ thống hải quan điện tử.
Tại khoản 3 Điều 7, nhằm hỗ trợ việc vận chuyển nhanh, kịp thời xếp dỡ hàng hóa lên tàu, giải phóng hàng hóa và tàu nhanh chóng, đề nghị sửa đổi, bổ sung thành: "Đối với hàng hóa container xuất nhập khẩu, trung chuyển còn nguyên niêm phong của hãng vận chuyển thuộc đối tượng quy định tại Điều 50 Thông tư số 38/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại điểm 3 khoản 28 Điều 1 Thông tư số 39/2018/TT-BTC ngày 20 tháng 4 năm 2018 của Bộ Tài chính, khi thực hiện theo hình thức vận chuyển độc lập giữa các cảng thuộc cùng khu vực giám sát của cùng chi cục Hải quan quản lý thì không thực hiện niêm phong hải quan".
Bởi theo Thông tư số 38/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 39/2018/TT-BTC ngày 20 tháng 4 năm 2018 của Bộ Tài chính, hàng hóa khi thực hiện theo hình thức vận chuyển độc lập giữa các cảng thuộc cùng khu vực giám sát của cùng chi cục Hải quan quản lý vẫn phải niêm phong hải quan trước khi vận chuyển.
Tại Điều 8 "Hiệu lực thị hành, Bộ Công Thương đề nghị làm rõ nội dung tại khoản 2. Đồng thời đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 thành: "Trong quá trình thực hiện, trường hợp gặp khó khăn, vướng mắc có liên quan, cơ quan hải quan, người khai hải quan và các đơn vị tổ chức có liên quan báo cáo phản ánh cụ thể về Bộ Tài chính để được xem xét, giải quyết".
Ngoài ra, tại mục 3 Phụ lục 1, ở cột "Biển kiểm soát phương tiện vận tải vận chuyển hàng hóa", đề nghị chỉ thể hiện loại hình vận chuyển là thủy hay bộ. Theo Bộ Công Thương, trong hoạt động vận tải chỉ có thể biết chính xác tên phương tiện, biển kiểm soát phương tiện vận chuyển sau khi cơ quan hải quan phê duyệt hàng hóa đủ điều kiện vận chuyển và trong quá trình xếp, dỡ hàng hóa lên phương tiện sẽ có những phát sinh liên quan đến kỹ thuật vận hành của phương tiện nên có sự thay đổi. Do đó, Bộ Công Thương đề nghị chỉ thực hiện giám sát theo tuyến đường, thời gian vận chuyển và kẹp chì hải quan, hãng vận chuyển.
Giải pháp gì để giảm giá cước vận tải biển tăng cao gấp 3-5 lần? Bộ Giao thông Vận tải sẽ tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách để vận tải biển đáp ứng tốt nhu cầu của toàn xã hội, nâng cao chất lượng dịch vụ. Sản lượng hàng container thông qua cảng biển liên tục tăng dù có dịch COVID-19. (Ảnh: CTV/Vietnam ) Liên quan đến việc giá thuê vỏ container và giá cước...