‘Kích hoạt’ tiềm năng vùng Tây Nguyên
Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6/10/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về Phương hướng phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến với nhiều điểm cầu trên toàn quốc.
Hội nghị có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển nhanh, bền vững vùng Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhằm sớm đưa Nghị quyết quan trọng vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển vùng.
Thành phố Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk). Ảnh: TTXVN phát
Khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế
Vùng Tây Nguyên có 5 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng), với diện tích tự nhiên là 54.548 km2, chiếm 1/6 diện tích tự nhiên của cả nước. Tây Nguyên được biết đến như là một vùng đất huyền thoại, là nơi cùng sinh sống của gần 6 triệu người, trong đó có 52 dân tộc thiểu số, với gần 2,2 triệu người. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên có truyền thống đoàn kết, đấu tranh cách mạng rất kiên cường; có nền văn hóa dân tộc vừa đa dạng, phong phú, vừa có nhiều nét đặc sắc riêng. Đây là một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, thuộc tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia, là “phên dậu phía Tây của Tổ quốc”, là “nóc nhà của Đông Dương”.
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, ngày 18/1/2002, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW; Bộ Chính trị khóa XI đã tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW và ban hành Kết luận số 12-KL/TW ngày 24/10/2011 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2010 và thời kỳ 2011-2020.
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa IX và khóa XI, các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của vùng Tây Nguyên.
Quy mô kinh tế được mở rộng, năm 2020 đạt khoảng 287 nghìn tỷ đồng, gấp khoảng 14 lần năm 2002; GRDP bình quân giai đoạn 2002-2020 là 7,98%, cao nhất trong các vùng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng dịch vụ; công nghiệp phát triển nhanh. Nông nghiệp trở thành vùng sản xuất nông sản lớn, với nhiều mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu của cả nước như cà phê, cao su, tiêu, cây ăn quả…
Trong toàn vùng, văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống văn hóa của người dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được phát huy. Công tác giảm nghèo từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm khá. Công tác quản lý, bảo vệ phát triển rừng, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước đã được các cấp, ngành, địa phương chú trọng và được xác định là vấn đề quan trọng, cấp thiết đối với sinh kế của người dân trong vùng. Quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên được giữ vững; công tác xây dựng Đảng được quan tâm; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên được nâng lên; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội được nâng cao, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố.
Video đang HOT
Là tỉnh nằm ở phía Bắc của vùng Tây Nguyên, đến nay tỉnh Kon Tum đã phá được thế ngõ cụt bằng các tuyến giao thông kết nối với các tỉnh duyên hải miền Trung và khu vực Tây Nguyên. Diện mạo đô thị từng bước đổi mới, thị xã Kon Tum đã được tập trung phát triển và thành lập thành phố Kon Tum vào năm 2010 và hiện đã đạt tiêu chí đô thị loại II; chia tách, thành lập thêm được 3 huyện mới, nâng tổng số đơn vị hành chính từ 7 huyện, thị xã năm 2002 lên 10 huyện, thành phố vào năm 2021.
Gia Lai là tỉnh miền núi, biên giới, có tiềm năng rất lớn trong các địa phương vùng Tây Nguyên, có diện tích rộng và dân số đông, được thiên nhiên ưu đãi, đất đai màu mỡ, có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo. Thời gian tới, định hướng của tỉnh là phát triển nhanh các lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp chế biến nông-lâm sản, tập trung thu hút những dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Hồ Phước Thành kiến nghị, Gia Lai là tỉnh có diện tích nông nghiệp lớn, không phát triển chiều rộng mà tập trung phát triển theo chiều sâu. Nhưng hiện trên địa bàn tỉnh có một số loại cây trồng kém hiệu quả, đề nghị được chuyển đổi diện tích này sang trồng các loại cây ăn quả có giá trị cao. Chăn nuôi đang tập trung vào dự án chăn nuôi đại gia súc, nhưng gặp khó khăn trong đánh giá tác động môi trường.
Nằm ở vị trí trung tâm vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk từ điểm xuất phát và mức tăng trưởng thấp, cơ cấu lạc hậu, nhưng qua từng giai đoạn đã có bước chuyển dịch khá, phát triển theo hướng đa dạng, với quy mô, chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng. Đến năm 2020, toàn tỉnh đã nhựa hóa, bê-tông hóa được 96,01% đường tỉnh lộ; 91,57% đường huyện; 64,96% đường xã, liên xã; 100% xã có đường nhựa đến trung tâm. Đến nay, 99,5% số thôn, buôn có điện và 99,8% số hộ được dùng điện. Giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn, trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh giảm bình quân 5%/năm. Theo ông Y Thông, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, để tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, tỉnh Đắk Lắk cần ưu tiên nguồn lực, chính sách, cơ chế… để phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân phát huy nội lực, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống và thể hiện được vai trò chủ thể trong xây dựng nông mới.
Để phát triển nông nghiệp bền vững, thời gian tới, ông Hồ Văn Mười, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cho rằng, tỉnh sẽ đẩy mạnh cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy phát triển các cây trồng có lợi thế; đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, phát triển mạnh kinh tế tập thể và tập trung đầu tư phát triển hạ tầng nông nghiệp.
Được đánh giá là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về diện tích ứng dụng công nghệ cao và trở thành “điểm sáng” về sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của cả nước, tỉnh Lâm Đồng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là khu vực năng động có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và là thị trường có nhiều tiềm năng lớn. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định, Lâm Đồng là tỉnh xa trung tâm, xa cảng biển, kết nối giao thông cũng còn kém, còn nhiều hạn chế trong kêu gọi đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhưng Lâm Đồng với vị trí của mình cũng có vai trò và vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ở vùng Tây Nguyên, tỉnh có vai trò kết nối quan trọng với 3 vùng là Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung bộ, Đông Nam bộ nên cũng cần được quan tâm đầu tư phát triển xứng tầm.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vùng Tây Nguyên hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức lớn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; tốc độ tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững, có xu hướng chậm lại. Thu nhập bình quân đầu người thấp nhất cả nước. Nhiều di sản văn hóa dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị mai một, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển. Công tác chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế cơ bản còn thấp so với mức trung bình của cả nước. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, vấn đề tôn giáo, dân tộc vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp…
Phát triển kinh tế xanh, tuần hoàn, giàu bản sắc văn hóa dân tộc
Thu hoạch cà phê tại huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Ảnh: Khoa Chương/TTXVN
Việc Bộ Chính trị ban hành, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát triển vùng Tây Nguyên thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với vùng; đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong vùng trong bối cảnh phát triển mới. Nghị quyết mới này là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng cho sự ra đời của các cơ chế, chính sách mới nhằm khai thác và phát huy ở mức cao nhất tiềm năng, lợi thế cho phát triển nhanh và bền vững toàn vùng và các địa phương trong vùng thời gian tới.
Vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết của Bộ Chính trị là phải nhận thức và giải quyết thật đúng, thật tốt mối quan hệ giữa phát triển vùng và phát triển chung của cả nước – Cả nước vì Vùng và Vùng vì Cả nước; xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các ban, bộ, ngành Trung ương; của các địa phương trong vùng để xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết theo đúng tinh thần “đúng vai, thuộc bài”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.
Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII xác định: Tây Nguyên trở thành vùng phát triển bền vững, có nền kinh tế xanh, tuần hoàn. Một số tỉnh trong vùng thuộc nhóm phát triển khá của cả nước. Hệ sinh thái rừng được bảo tồn và phát triển; hình thành một số khu du lịch chất lượng cao, điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Hình thành các vùng sản xuất lớn về cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa và trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng, an ninh, người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bản sắc văn hóa được phát huy và trở thành nền tảng để phát triển. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc.
Tại Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18/01/2002 và Kết luận số 12-KL/TW ngày 24/10/2011 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, Tây Nguyên cần phát triển kinh tế xanh, tuần hoàn, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, trong đó hình thành một số sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu quốc tế; kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trong đó hạ tầng giao thông là nền tảng quan trọng; là điểm đến đặc sắc thu hút khách du lịch; hệ sinh thái được bảo tồn, an ninh nguồn nước được đảm bảo; an ninh chính trị ổn định; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện.
Tây Nguyên có tổng diện tích đất nông nghiệp gần 5,5 triệu ha, chiếm khoảng 16% diện tích đất cả nước; trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 91%. Đây cũng là một trong những trung tâm sản xuất nông sản hàng hóa lớn của cả nước với sự dồi dào về sản lượng và phong phú về chủng loại nông sản gắn với công nghiệp chế biến, phát triển du lịch sinh thái. Với khí hậu thuận lợi cho phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp, cây dược liệu chất lượng cao, sản lượng lớn và khả năng cạnh tranh cao, Tây Nguyên đứng đầu cả nước về sản lượng cà phê, hồ tiêu, bơ, chanh leo. Nông nghiệp Tây Nguyên liên tục phát triển theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế vùng, thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp với cơ chế thị trường.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, tiềm năng Tây Nguyên đang được đánh thức và sẽ phát huy mạnh mẽ hơn nhờ Nghị quyết của Bộ Chính trị. Tiềm năng có thể vô hạn, nhưng tài nguyên, bao gồm đất đai và nguồn nước, rừng và khoáng sản lại hữu hạn. Do đó, chỉ khi tích hợp đa tầng giá trị, tăng cường liên kết vùng mới kích hoạt trọn vẹn tiềm năng.
Nghị quyết số 23-NQ/TW ra đời thể hiện trách nhiệm của toàn Đảng và cả nước đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên – vùng đất cách mạng, anh hùng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng rằng, cấp ủy, chính quyền, đồng bào các tỉnh Tây Nguyên sẽ cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, tiếp tục đổi mới, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, để tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức; thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, tạo bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn trong phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng Tây Nguyên.
Cần điều hành giá linh hoạt, kiểm soát lạm phát những tháng cuối năm
Văn phòng Chính phủ vừa phát đi về kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá tại cuộc họp của Ban Chỉ đạo ngày 24/8/2022.
Chiều 24/8/2022, tại trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì phiên họp của Ban Chỉ đạo điều hành giá 8 tháng vừa qua và định hướng công tác điều hành giá những tháng cuối năm 2022. Ảnh: An Đăng/TTXVN
Thông báo nêu rõ, Phó Thủ tướng yêu cầu trong công tác quản lý, điều hành giá phải bám sát tình hình thế giới, không được chủ quan, lơ là, đảm bảo cung cầu trong nước để ổn định kinh tế.
Trong thời gian còn lại của năm 2022, công tác quản lý, điều hành giá cần tiếp tục thực hiện một cách chủ động và linh hoạt, vừa phải đảm bảo kiểm soát lạm phát bình quân cả năm 2022 theo mục tiêu Chính phủ và Quốc hội giao, vừa tạo nền tảng thuận lợi cho việc kiểm soát lạm phát trong năm 2023. Các bộ, ngành, địa phương bám sát và thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 679/CĐ-TTg về việc tăng cường các biện pháp quản lý, điều hành giá, ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái - Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá về các giải pháp cụ thể đối với công tác điều hành giá năm 2022 tại các văn bản số 882/VPCP-KTTH, Thông báo số 65/TB-VPCP, Thông báo số 81/TB-VPCP, Thông báo số 179/TB-VPCP và Thông báo số 209/TB-VPCP.
Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải chú trọng tập trung vào các biện pháp quản lý chung: Theo dõi sát diễn biến kinh tế và lạm phát thế giới; cập nhật sát tình hình cung cầu giá cả hàng hóa chiến lược trên thị trường quốc tế; đánh giá kỹ các yếu tố, nguy cơ có thể dẫn đến nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài, nhận định các mặt hàng, nguyên vật liệu nào có khả năng thiếu hụt tạm thời hay trong dài hạn để từ đó đưa ra được chính sách phù hợp; ưu tiên đảm bảo nguồn cung, đảm bảo cân đối cung - cầu thị trường trong nước, giám sát chặt chẽ biến động giá các mặt hàng thiết yếu, nhất là các mặt hàng vẫn có biến động tăng giá trong bối cảnh giá xăng dầu giảm mạnh để có giải pháp quản lý, điều hành, bình ổn giá phù hợp, đảm bảo điều tiết theo giá thị trường.
Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường, cập nhật kịch bản điều hành giá chi tiết, kịp thời cho các tháng còn lại trong năm để tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các biện pháp điều hành giá phù hợp nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu 4% đã đề ra.
Thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, lãi suất, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ phục vụ tăng trưởng. Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát sao tình hình trong nước và thế giới, đánh giá tác động chính sách về tỷ giá và tín dụng đối với cán cân xuất nhập khẩu. Tiếp tục kiểm soát lạm phát cơ bản trong năm 2022 để tạo cơ sở cho việc kiểm soát lạm phát chung.
Các bộ, ngành, địa phương rà soát việc áp dụng các chính sách tài khóa, đặc biệt là với các chính sách sắp hết hiệu lực, nghiên cứu dư địa còn lại của các chính sách thuế, phí đặc biệt liên quan đến xăng dầu. Sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ, biện pháp điều tiết giá theo quy định của pháp luật về giá để kiểm soát, bình ổn thị trường. Tăng cường triển khai hiệu quả và giám sát thực hiện các biện pháp kê khai giá, niêm yết giá; công khai thông tin về giá; tổ chức thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá.
Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, đảm bảo kịp thời, minh bạch thông tin về giá và công tác điều hành giá của Chính phủ, Ban Chỉ đạo điều hành giá, nhất là diễn biến giá cả các vật tư quan trọng, các mặt hàng thiết yếu liên quan đến sản xuất và đời sống người dân để hạn chế gia tăng lạm phát kỳ vọng, ổn định tâm lý người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Về điều hành giá một số mặt hàng thiết yếu, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ quản lý ngành, địa phương trong phạm vi, lĩnh vực quản lý đẩy mạnh tổ chức triển khai theo dõi sát diễn biến thị trường, tăng cường phối hợp trong công tác điều hành, kịp thời thực hiện giải pháp đảm bảo cân đối cung cầu trong nước, ổn định giá cả, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, găm hàng, đầu cơ, tăng giá bất hợp lý. Trong đó, đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục chủ động trong việc đề xuất, xây dựng các phương án điều chỉnh giá các mặt hàng do nhà nước quản lý, các dịch vụ công triển khai lộ trình thị trường, đánh giá kỹ tác động đối với kinh tế - xã hội, mặt bằng giá, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để chủ động có phương án điều chỉnh giá hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh giá phù hợp với diễn biến, mặt bằng giá thị trường theo đúng quy định.
Đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu linh hoạt, bảo đảm giá xăng dầu trong nước phản ánh, bám sát diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới, sử dụng hợp lý Quỹ Bình ổn giá xăng dầu với liều lượng thích hợp theo quy định, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người dân; chủ động thực hiện các biện pháp để bảo đảm nguồn cung xăng dầu trong mọi tình huống. Bộ Tài chính chủ động nghiên cứu hoàn thiện trình các cấp có thẩm quyền xem xét các phương án giảm thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nhóm mặt hàng xăng dầu trong trường hợp giá thế giới tiếp tục tăng cao.
Đối với các mặt hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ giá xăng dầu như dịch vụ vận tải hành khách, vận tải hàng hóa, logistic, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan có liên quan tăng cường chỉ đạo, đề nghị, tuyên truyền đơn vị kinh doanh vận tải, cơ quan chuyên môn rà soát chặt chẽ mức giá kê khai, đảm bảo mức giá kê khai phù hợp với biến động của yếu tố hình thành giá, đặc biệt là yếu tố xăng dầu; trường hợp yếu tố xăng dầu giảm, tác động làm giảm giá cước thì yêu cầu kê khai giảm giá cước. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về kê khai giá, niêm yết giá... xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng để tăng giá bất hợp lý, kê khai giá cước không phù hợp với biến động của yếu tố hình thành giá. Cùng đó, thường xuyên cập nhật, tổng hợp báo cáo và tăng cường tuyên truyền, công khai thông tin về tình hình giá cước vận tải tại địa phương và cả nước.
Đối với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, chịu ảnh hưởng gián tiếp từ giá xăng dầu, có tác động đến chỉ số giá tiêu dùng và ảnh hưởng đến đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các bộ, ngành, địa phương theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường, tổ chức nắm bắt tình hình thực hiện của các tổ chức, cá nhân kinh doanh để có các biện pháp điều hành, bình ổn giá phù hợp; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về giá, các biện pháp kê khai, niêm yết giá, xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng để tăng giá bất hợp lý; chủ động kiểm tra yếu tố hình thành giá theo quy định tại Luật Giá và theo thẩm quyền khi hàng hóa có biến động bất thường và xử lý các sai phạm theo quy định...
MobiFone triển khai toàn diện, đồng bộ công tác xây dựng Đảng Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây là một trong năm bài học kinh nghiệm quý báu mà Báo cáo chính trị mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra và cũng là kim chỉ nam...