Khung pháp lý cho thuốc lá thế hệ mới: Cần nghiên cứu kỹ
Những năm gần đây, thuốc lá điện tử, thuốc lá làm nóng (gọi chung là thuốc lá thế hệ mới) xuất hiện nhiều trên thị trường.
Do là sản phẩm mới, còn có những quan điểm, cách hiểu khác nhau, vì thế việc xây dựng khung pháp lý quản lý thuốc lá thế hệ mới cần được nghiên cứu kỹ.
Lực lượng quản lý thị trường Hà Nội kiểm tra một cơ sở kinh doanh thuốc lá điện tử (tháng 11-2020).
Ý kiến vẫn còn khác biệt
Bộ Công Thương cho biết, Bộ đang chủ trì soạn thảo khung pháp lý cho thuốc lá thế hệ mới, trong bối cảnh hàng nhập lậu đang tăng nhanh trên thị trường nhưng các cơ quan chức năng chưa có hướng xử lý vì thiếu vắng các chính sách quản lý.
Trong khi đó, Bộ Y tế vẫn duy trì quan điểm nên cấm dòng sản phẩm này. Theo quan điểm của đại diện Bộ Y tế, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, thuốc lá điện tử còn bị lợi dụng để sử dụng các chế phẩm ma túy, do đó cần cấm nhập khẩu, sản xuất cũng như kinh doanh, sử dụng. Còn Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, Bộ đang xem xét xây dựng tiêu chí kỹ thuật đối với thuốc lá thế hệ mới.
Video đang HOT
Trên thế giới, các tổ chức quốc tế và các quốc gia đang đưa ra các quan điểm khác nhau với thuốc lá thế hệ mới.
Về mặt phân loại sản phẩm, Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) đã thông qua đề xuất sửa đổi Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa qua đó, tạo ra thêm một phân nhóm mới 2404 cho thuốc lá thế hệ mới, tách biệt với phân nhóm 2402 dành cho thuốc lá điếu truyền thống. Phiên bản sửa đổi này sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2022.
Châu Âu là một trong những thị trường ủng hộ thuốc lá thế hệ mới và có chính sách quản lý thuốc lá thế hệ mới “dễ thở” hơn so với thuốc lá truyền thống. Một số quốc gia khác thì quản lý như thuốc lá truyền thống và cũng có quốc gia quyết định cấm sản phẩm thuốc lá thế hệ mới.
Đánh giá tác động kinh tế – xã hội trước khi luật hóa
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc cấm thuốc lá thế hệ mới là không khả thi vì người tiêu dùng Việt Nam vẫn có nhu cầu, và thị trường sản phẩm nhập lậu vẫn tràn lan. Tuy nhiên, cần thời gian để nghiên cứu kỹ một khung pháp lý và đánh giá tác động kinh tế – xã hội trước khi chính thức mở cửa thị trường với thuốc lá thế hệ mới.
Theo bà Phan Minh Thủy, Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, việc đưa ra chính sách nào cũng cần nghiên cứu rất kỹ và có các giải pháp toàn diện, từ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đến quy định về kinh doanh (như sản xuất, phân phối, tiêu thụ, đầu tư, mua bán nguyên liệu), quy định về quảng cáo, thuế, biện pháp xử lý vi phạm.
Luật sư Bùi Quang Nghiêm, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, thuốc lá thế hệ mới không phải là mặt hàng thiết yếu và còn khá lạ lẫm nên cần thận trọng, nghiên cứu kỹ lưỡng, có thêm thời gian đánh giá tác động riêng về mặt kinh tế, xã hội, sức khỏe người tiêu dùng, mức độ rủi ro của sản phẩm…
Trên cơ sở đó, xây dựng khung pháp lý phù hợp, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, phù hợp với chiến lược quốc gia về giảm thiểu tác hại thuốc lá và không làm gia tăng thị trường thuốc lá bất hợp pháp.
Ngoài ra, theo ông Lê Thành Hưng, Viện Tiêu chuẩn – Chất lượng Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ), giữa thuốc lá truyền thống và thuốc lá thế hệ mới có sự khác biệt về đặc tính và cách thức hoạt động. Vì thế, cần có thời gian nghiên cứu, định ra các quy định quản lý, tiêu chí kỹ thuật, đánh giá sự tương đồng giữa các sản phẩm, đo lường tiềm năng giảm thiểu tác hại đối với sức khỏe người dùng và cộng đồng.
Tuy nhiên, nếu thiếu vắng khung pháp lý thì sẽ rất khó xử lý hàng lậu, hàng không rõ nguồn gốc đang tràn vào Việt Nam. Trong tình hình này, một số chuyên gia cho rằng trước mắt cơ quan quản lý có thể xem xét xử lý thuốc lá thế hệ mới bất hợp pháp như thuốc lá điếu nhập lậu để áp dụng chung các quy định xử phạt trong khi chờ ban hành chính sách quản lý riêng cho cả thuốc lá thế hệ mới.
Chính phủ đặt mục tiêu có 500 doanh nghiệp công nghệ cao
Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030, cả nước sẽ có khoảng 500 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao và 200 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu cụ thể của Chương trình là hướng tới Việt Nam phát triển và làm chủ được 20 công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, ứng dụng có hiệu quả vào hoạt động sản xuất sản phẩm công nghệ cao, cung ứng dịch vụ công nghệ cao của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Chương trình cũng hướng tới gia tăng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu trong công nghiệp chế biến chế tạo, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới có giá trị gia tăng cao.
Chính phủ đề ra mục tiêu tới năm 2030, Việt Nam sẽ xây dựng và phát triển khoảng 500 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Ảnh: TYTVN.
Chính phủ cũng đặt mục tiêu xây dựng và phát triển khoảng 500 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, cung ứng dịch vụ công nghệ cao thuộc danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển cùng khoảng 200 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có sự hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên phạm vi cả nước.
Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030 sẽ bao gồm 3 chương trình thành phần. Thứ nhất là Chương trình nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ cao, phát triển sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì.
Cùng với đó là Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao do Bộ Công Thương chủ trì và Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì.
Để đạt mục tiêu trên, Chính phủ xác định nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Chương trình sẽ gồm hoàn thiện thể chế, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ sử dụng kết quả nghiên cứu, thúc đẩy liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và tổ chức khoa học và công nghệ.
Bên cạnh đó, các đơn vị liên quan cần có giải pháp hỗ trợ và tạo điều kiện cho ứng dụng, sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công nghệ cao, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công nghệ cao cũng như nâng cao nhận thức xã hội về vai trò và tác động của công nghệ cao.
Sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ: Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng Trước quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam thông qua việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, làn sóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng cũng như mục tiêu hướng tới một chính phủ kiến tạo, việc sửa đổi Luật Sở...