“Không thể mặc nhiên coi tài sản cán bộ không giải trình được là tham nhũng”
Chủ nhiệm UB Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga đặt vấn đề, về mặt pháp lý, không thể mặc nhiên coi tài sản không giải trình được về nguồn gốc là tài sản tham nhũng để tịch thu bằng biện pháp hình sự theo hướng “suy đoán có tội”…
Pháp luật không buộc chứng minh nguồn tiền mua tài sản
Trong báo cáo thẩm tra dự thảo mới nhất Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi), nói về 2 phương án xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm cán bộ không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc mà Chính phủ đề xuất bổ sung tại Điều 59 dự thảo luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi), UB Tư pháp của Quốc hội nhận định, tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp (do vi phạm pháp luật, phạm tội mà có) thì tùy từng trường hợp, pháp luật hiện hành đã có quy định cụ thể để xử lý hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính bằng hình thức thu hồi, trả lại cho chủ sở hữu hoặc tịch thu sung công…
Riêng đối với tài sản, thu nhập không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc thì đến nay pháp luật vẫn chưa có quy định xử lý, trong khi không loại trừ một số tài sản này có thể có nguồn gốc từ tham nhũng, từ vi phạm pháp luật nhưng Nhà nước chưa chứng minh được.
Do đó, UB Tư pháp cho rằng, việc dự thảo luật tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, bổ sung quy định xử lý đối với loại tài sản, thu nhập này là cần thiết để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, phù hợp với xu thế chung của quốc tế về phòng chống tham nhũng.
Tuy nhiên, Chủ nhiệm UB Tư pháp Lê Thị Nga xác định, đây là vấn đề lớn, có liên quan đến quyền sở hữu tài sản là quyền cơ bản của công dân được Hiến định, nên việc xử lý theo phương án nào cần được cân nhắc rất kỹ, thận trọng để vừa bảo đảm quyền cơ bản của công dân, vừa đáp ứng yêu cầu phòng chống tham nhũng.
Chủ nhiệm UB Tư pháp Lê Thị Nga cảnh báo cẩn trọng trong việc xử lý tài sản cán bộ
Với các phương án đưa ra, UB Tư pháp phân tích, đặc điểm xã hội Việt Nam là người dân có truyền thống tích lũy, tiết kiệm, tặng cho, thừa kế trong gia đình. Tài sản của cán bộ, công chức được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau (ngoài thu nhập từ lương thì nhiều người còn làm thêm để tăng thu nhập dưới nhiều hình thức) và trong khi Nhà nước chưa kiểm soát được thu nhập của toàn xã hội, pháp luật hiện hành cũng chưa quy định buộc người dân phải chứng minh nguồn gốc hình thành số tiền để mua tài sản, nhất là những tài sản có giá trị lớn; chưa quy định đánh thuế đối với tài sản…
Trong bối cảnh đó, việc xác định tính hợp lý của nguồn gốc tài sản nói chung là vấn đề rất phức tạp. Trong khi đó, về mặt pháp lý, không thể mặc nhiên coi tài sản không giải trình được hợp lý về nguồn gốc là tài sản tham nhũng để tịch thu bằng biện pháp hình sự theo hướng “suy đoán có tội”.
Mặt khác, cơ quan thẩm tra dự án luật đặt vấn đề, nếu coi đó là tài sản của Nhà nước để tiến hành xác lập quyền sở hữu Nhà nước theo thủ tục tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sở hữu thì vừa không phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự về các căn cứ xác lập quyền sở hữu, vừa rất khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của người thay mặt nhà nước đứng ra khởi kiện.
“Đặc biệt, đây là lần đầu tiên chúng ta đặt vấn đề xử lý tài sản đó nhằm phòng chống tham nhũng nên cần phải tiến hành thận trọng, có bước đi phù hợp. Đồng thời, cần quy định cụ thể tiêu chí làm căn cứ để xác định trường hợp nào được coi là “không giải trình được một cách hợp lý” để tránh tùy tiện, thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật” – Chủ nhiệm Lê Thị Nga nêu quan điểm.
Tịch thu không được, xử phạt không… xuôi
Video đang HOT
Chủ nhiệm UB Tư pháp cũng cho biết, trong cơ quan thẩm tra hiện có 2 loại ý kiến.
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với phương án 1 của dự thảo Luật và cho rằng đối với các khoản thu nhập, tài sản mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc, nhưng Nhà nước cũng chưa chứng minh được tài sản này có nguồn gốc bất hợp pháp thì trước mắt, có thể coi đây là các khoản thu nhập phát sinh mà người kê khai chưa nộp thuế và buộc họ phải nộp thuế là phù hợp trong điều kiện hiện nay. Những ý kiến này lập luận, phương án 1 đưa ra không mâu thuẫn với các quy định hiện hành của pháp luật hình sự, dân sự và hạn chế ít nhất việc phải sửa đổi các luật có liên quan.
Về mức thuế, đa số ý kiến của UBTP tán thành mức thuế suất 45% với những lý do như giải trình của Chính phủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc mức thuế suất cho phù hợp với các quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện nay.
Loại ý kiến thứ hai tán thành với phương án 2 của dự thảo Luật vì cho rằng, mối quan hệ giữa nhà nước với cán bộ, công chức, viên chức trong kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập là mối quan hệ hành chính; cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh chấp hành Luật phòng chống tham nhũng, trong đó có nghĩa vụ trung thực, minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập. Vì vậy, đối với tài sản, thu nhập thực tế lớn hơn tài sản, thu nhập đã kê khai hoặc tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc thì Nhà nước sẽ xử phạt hành chính đối với hành vi kê khai không trung thực, không minh bạch về tài sản, thu nhập.
Phương án này thể hiện chế tài nghiêm khắc của Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm nghĩa vụ minh bạch tài sản, thu nhập; khắc phục tính hình thức trong kê khai tài sản, thu nhập thời gian qua.
Tuy nhiên, hiện nay Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng, chưa quy định về thẩm quyền xử phạt và mức phạt . Do đó, nếu áp dụng theo phương án này thì cần sửa đổi Luật này, cùng với đó là sửa đổi về thẩm quyền, mức phạt. Mức phạt được tính trên giá trị tài sản, thu nhập không giải trình được hợp lý về nguồn gốc (với mức 45% bằng với mức thu thuế theo loại ý kiến thứ nhất).
Ngoài ra, trong UB TƯ pháp cũng có một số ý kiến đề nghị các phương án khác để xử lý tài sản, thu nhập không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc. Có ý kiến đề nghị giữ quy định xử lý vi phạm về minh bạch thu nhập, tài sản như pháp luật hiện hành (Luật phòng chống tham nhũng và Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập).
Theo đó, các văn bản pháp luật không quy định về việc thu hồi tài sản, thu nhập mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc; tài sản này sẽ bị xử lý, tịch thu sung quỹ Nhà nước nếu cơ quan có thẩm quyền chứng minh được là do tham nhũng, do phạm tội mà có. Đối với người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, người giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm không hợp lý thì tùy theo mức độ sẽ bị áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, giáng chức, cách chức, bãi nhiệm…).
Ý kiến này cho rằng, nếu thực hiện nghiêm chỉnh các quy định này cũng đã đủ nghiêm minh, bảo đảm tính răn đe và đáp ứng yêu cầu phòng chống tham nhũng.
Có ý kiến cho rằng tài sản, thu nhập không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc thì không thuộc sở hữu của người phải kê khai và nhà nước sẽ tịch thu qua trình tự tố tụng dân sự, có tranh tụng để đảm bảo được quyền lợi của các bên. Cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập sẽ là chủ thể thay mặt nhà nước để khởi kiện và bảo vệ quyền lợi của nhà nước trước tòa án.
Có ý kiến đề nghị quy định cơ chế tịch thu tài sản theo trình tự, thủ tục hành chính, tư pháp (tương tự như trình tự, thủ tục tòa án quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng). Theo đó, sau khi kết luận tài sản, thu nhập chênh lệch hoặc tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc thì cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập đề nghị Tòa án quyết định việc xử lý tài sản.
Theo phương án này, UB Thường vụ Quốc hội cần ban hành pháp lệnh quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tại tòa án.
Cũng có ý kiến đề nghị hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp.
Nhận định đây là vấn đề mới và phức tạp, quá trình thảo luận còn nhiều ý kiến khác nhau, UB Tư pháp nêu ra các nội dung để xin ý kiến chỉ đạo của UB Thường vụ Quốc hội.
P.Thảo
Theo Dantri
Tài sản bất minh nhưng không có chứng cứ là tham nhũng: Thu thuế 45%
Chính phủ nêu lý do đề xuất chọn phương án quy định thu thuế thu nhập cá nhân (mức thuế 45%) với những tài sản, thu nhập mà cán bộ không giải trình được là vì quy định như vậy phù hợp với điều kiện Việt Nam, nhằm thể hiện thái độ của nhà nước khi cả cán bộ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều không đủ bằng chứng xác định.
UB Thường vụ Quốc hội họp phiên họp thứ 23
Sáng 11/4, trong khuôn khổ phiên họp thứ 23, UB Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi).
Xử lý trực tiếp tài sản bất minh ảnh hưởng đến quyền công dân
Về việc xử lý tài sản bất minh, báo cáo giải trình, tiếp thu dự thảo luật nêu rõ, nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung các quy định chi tiết về thu hồi, chế tài xử lý đối với tài sản không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp như nghiên cứu thêm các biện pháp thu hồi tài sản không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp thông qua thủ tục dân sự; quy định thủ tục tư pháp một cách công khai và chặt chẽ.
Cơ quan chủ trì soạn thảo cho rằng, việc xử lý tài sản, thu nhập chêch lệch do kê khai không trung thực hoặc tài sản, thu nhập tăng thêm mà người kê khai không giải trình được một cách hợp lý có liên quan đến quyền sở hữu tài sản của người kê khai và vợ/chồng, con chưa thành niên của người kê khai.
Do đó, việc áp dụng các biện pháp xử lý trực tiếp đối với tài sản, thu nhập là một vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến quyền công dân, quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Trường hợp áp dụng thì cũng cần phải sửa rất nhiều các đạo luật có liên quan mới được Quốc hội thông qua như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự.
Như vậy, việc quy định các biện pháp xử lý trực tiếp đối với tài sản, thu nhập kê khai không trung thực hoặc tài sản, thu nhập tăng thêm mà không giải trình được một cách hợp lý trong dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi lần này là chưa thích hợp.
Từ những phân tích ở trên, Chính phủ đề xuất quy định về việc xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực hoặc tài sản, thu nhập tăng thêm và người kê khai không giải trình được một cách hợp lý về việc hình thành tài sản, thu nhập theo 2 phương án.
Áp thuế 45% thể hiện thái độ của nhà nước với người có tài sản bất minh
Cụ thể, dự thảo luật mới nhất đã bổ sung Điều 59 quy định về xử lý tài sản, thu nhập thực tế lớn hơn tài sản, thu nhập đã kê khai hoặc tài sản, thu nhập tăng thêm mà người kê khai không giải trình được một cách hợp lý về phần tài sản, thu nhập chênh lệch hoặc tăng thêm, theo 2 phương án.
Phương án 1: Cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập yêu cầu cơ quan thuế thực hiện việc thu thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời, dự thảo Luật sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân (bổ sung Điều 18a và điểm g khoản 2 Điều 23), quy định mức thuế suất 45% đối với thu nhập chịu thuế do vi phạm quy định của Luật PCTN (Điều 123 của dự thảo Luật).
Phương án 2: Cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền bằng 45% giá trị của phần tài sản, thu nhập chênh lệch hoặc tăng thêm.
Đối với cả 2 phương án, dự thảo Luật đều quy định người bị thu thuế hoặc bị xử phạt hành chính có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện tại tòa án hành chính về kết luận xác minh tài sản, thu nhập. Việc thu thuế hay xử phạt hành chính đều không loại trừ trách nhiệm hình sự nếu các cơ quan có thẩm quyền chứng minh tài sản đó do phạm tội mà có.
Trong 2 phương án trên, Chính phủ lựa chọn phương án 1, vì cho rằng phương án này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam hiện nay. Phương án này cũng nhằm thể hiện thái độ của Nhà nước trong việc xử lý các khoản thu nhập, tài sản có nguồn gốc không rõ ràng khi cả người có nghĩa vụ kê khai và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều không có đủ bằng chứng xác thực về căn cứ xác lập quyền sở hữu hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Sau khi sửa Luật Thuế thu nhập cá nhân thì thu nhập do vi phạm Luật Phòng chống tham nhũng là thu nhập chịu thuế với mức thuế suất là 45% trong biểu thuế toàn phần, Chính phủ cho biết.
Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Minh Khái báo cáo giải trình, tiếp thu dự án luật
Phương án trên, theo Chính phủ cũng đã thể hiện rõ tinh thần việc thu thuế không loại trừ trách nhiệm hình sự và tịch thu tài sản, thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai, nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự khác chứng minh được tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình một cách hợp lý có được hoặc có nguồn gốc từ hành vi phạm tội để tránh cách hiểu theo hướng hợp pháp hóa 55% giá trị còn lại của tài sản, thu nhập không có nguồn gốc rõ ràng hoặc trái với các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Báo cáo của Chính phủ cũng nói rõ, việc thu thuế đối với phần tài sản, thu nhập chênh lệch giữa thực tế và kê khai hoặc tăng thêm chỉ được áp dụng sau khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã tiến hành xác minh, kết luận người kê khai không giải trình được một cách hợp lý về việc hình thành phần tài sản, thu nhập chênh lệch hoặc tăng thêm đó và chưa có đủ bằng chứng kết luận về phần tài sản, thu nhập chênh lệch hoặc tăng thêm này có được hoặc có nguồn gốc từ hành vi phạm tội.
Do vậy, phương án này phù hợp với quy định của Hiến pháp và Bộ luật Dân sự vì người kê khai đã không giải trình được tài sản, thu nhập này là hợp pháp, là của cải để dành theo điều 32 Hiến pháp năm 2013 và không thuộc các trường hợp được xác lập quyền sở hữu theo điều 221 Bộ luật Dân sự.
P.Thảo
Theo Dantri
Sẽ trình Quốc hội 2 phương án xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực Ngày 14/3, Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) đã họp lấy ý kiến các thành viên về một số nội dung đang còn có ý kiến khác nhau, trong đó quy định tại Điều 59 về xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực và tài sản thu nhập tăng thêm...