“Không thể để Formosa xả thải với nhiều ưu ái như thế được”
Đó là khẳng định của TS Nguyễn Khắc Kinh – nguyên Vụ trưởng Vụ Thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ( Bộ Tài nguyên và Môi trường) xung quanh việc Formosa được hưởng “ưu ái đặc biệt” về xả thải theo tiêu chuẩn riêng của ngành thép, không giống với phần lớn các ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
TS Nguyễn Khắc Kinh- nguyên Vụ trưởng Vụ Thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Trao đổi với PV Dân trí, TS Nguyễn Khắc Kinh – nguyên Vụ trưởng Vụ Thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, Formosa đang được hưởng “ưu ái đặc biệt” về xả thải.
Trong khi phần lớn các ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay xả thải đáp ứng theo các tiêu chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT về nước thải công nghiệp thì Bộ Tài nguyên và Môi trường lại cho phép một số ngành như sản xuất thép, dệt nhuộm, bột giấy, giấy, chế biến thủy sản, cao su… có quy chuẩn riêng. Trong đó ngành sản xuất thép thực hiện theo QCVN 52: 2013/BTNMT – chỉ phải quan trắc khoảng 12 thông số kỹ thuật trước khi thải ra môi trường; còn Quy chuẩn của QCVN 40:2011/BTNMT là 33 thông số (?!).
Đặc biệt, trong khi QCVN 40:2011/BTNMT quy định giới hạn hàm lượng xyanua thải ra môi trường là 0,1mg/lít thì ngành thép được phép xả thải tới 0,5mg/lít. Theo giấy phép xả thải của Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp cho Formosa thì nhà máy này được xả thải tổng phenol là 0,585mg/l và tổng xyanua 0,585mg/l.
Phóng viên: Thưa ông, việc ban hành tiêu chuẩn như vậy vô hình chung đã tạo ra sự bất bình đẳng trong xả thải giữa các ngành công nghiệp ở Việt Nam?
TS Nguyễn Khắc Kinh: Với tư vấn của các nhà khoa học, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cho rằng một số ngành đó không thể xử lý chất thải theo đúng tiêu chuẩn chất thải công nghiệp thông thường nên cần có tiêu chuẩn riêng cho ngành.
Thời kỳ còn làm Trưởng ban Tiêu chuẩn khoa học công nghệ môi trường của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (sau này tách ra thành Bộ Khoa học-Công nghệ và Bộ Tài nguyên và Môi trường – PV), tôi đã kiên quyết phản đối việc ban hành quy chuẩn xả thải ngành bởi việc đó tạo ra sự bất bình đẳng.
Ban hành tiêu chuẩn xả thải theo ngành mà theo hướng lỏng lẻo hơn tiêu chuẩn thông thường thì ở một số nước người ta cũng làm, nhưng không phải được phép xây dựng nhà máy ở bất kỳ chỗ nào, mà chỉ được xây dựng ở những vị trí nhất định và còn có sức chịu tải của môi trường rất lớn.
Với những chất cực độc như phenol và xyanua mà Formosa được “ưu ái” xả thải ra biển theo tiêu chuẩn như vậy thì cực kỳ nguy hiểm về lâu dài?
Ưu ái xả thải như vậy không chỉ riêng cho Formosa, bởi nó áp dụng cho cả ngành sản xuất thép. Trước sự việc vừa rồi, các bộ ngành cần phải xem xét điều chỉnh lại tiêu chuẩn này, nhưng điều chỉnh lại bây giờ phức tạp đấy bởi chúng ta đã cho người ta rồi, giờ bảo người ta điều chỉnh tiêu chuẩn đâu có dễ. Công nghệ đã xây dựng rồi, giờ chuyển công nghệ đòi hỏi phải có thời gian.
Nhưng vừa qua Chính phủ đã kết luận và chỉ rõ những sai phạm của Formosa trong việc xả thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Formosa cũng đã cam kết bồi thường 500 triệu USD và thực hiện các giải pháp khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm cũng như không tái phạm. Tuy nhiên nếu chúng ta không điều chỉnh những “ưu ái” trong việc xả thải này, đặc biệt khi khối lượng xả thải ra biển của Formosa rất lớn, thì hậu quả thật khôn lường?
Nếu thấy họ thải ra với với hàm lượng, lưu lượng lớn như thế mà ảnh hưởng thì phải tìm cách dừng lại ngay. Nhưng trước mắt tôi rất muốn dừng ngay chuyện ban hành tiêu chuẩn xả thải ngành nếu không có quy hoạch. Không thể để người ta sử dụng tiêu chuẩn xả thải theo ngành để xây dựng nhà máy chỗ nào cũng được.
Video đang HOT
Vừa rồi Formosa đã xả thải bậy đấy chứ, có phải xả thải đúng đâu. Giữa thải đúng tiêu chuẩn và thải bậy là hai chuyện khác nhau. Giờ phải đánh giá lại việc dự báo trước đây so với thực tế hiện nay thế nào. Nếu thấy vùng ấy không được phép xả lưu lượng lớn như thế thì hai bên phải bàn cách mà dừng, điều chỉnh lại. Lỗi ở đâu, lỗi của ai thì phải xem xét cho thỏa đáng. Về lâu dài không thể để Formosa xả thải nhiều với những ưu ái như thế được.
Vậy theo ông những việc mà các bộ ngành liên quan cần phải làm ngay tới đây là gì?
Thứ nhất phải đánh giá, xem xét sức chịu tải của vùng biển Vũng Áng và xung quanh đó còn cho lượng xả thải lớn như thế không, nếu không thì phải siết tiêu chuẩn lại, còn chuyện lộ trình bàn sau. Nếu bây giờ sức chịu tải không còn hoặc quá nhạy cảm, khiến việc “nhận thêm” chất độc sẽ khiến hủy hoại, phá hoại các loài sinh vật, san hô thì phải rất cẩn thận.
Thứ hai là phải có đánh giá lại toàn diện tiêu chuẩn xả thải của Khu kinh tế Vũng Áng. Ở đó đâu chỉ có ngành thép mà còn có cả ngành sản xuất cốc, sản xuất điện,… nên các tiêu chuẩn về xả thải phải có sự khác nhau, kiểm soát chặt chẽ khác nhau. Không thể để việc sản xuất cốc mà lại áp dụng tiêu chuẩn xả thải của sản xuất thép được.
Xin cảm ơn ông!
Mỗi năm xả thải cả chục tấn chất độc xuống biển
Theo tính toán của các nhà khoa học, với công suất xả thải 45.000m3/ngày và tổng hàm lượng phenol là 0,585mg/l, xyanua 0,585mg/l thì mỗi năm Formosa được phép xả thải ra môi trường khoảng 9,6 tấn xyanua và 9,6 tấn phenol.
Vừa qua, kết quả phân tích độc tố (phenol, xyanua) tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Y tế và Đại học Sydney (Australia) cho thấy trong nhiều mẫu cá chết thu được có hàm lượng độc tố cao. Các nhà khoa học khẳng định, đã có một nguồn thải lớn chứa phenol, xyanua kết hợp phức sắt ở dạng keo (Mixel) xả ra môi trường biển xuất phát từ khu vực Vũng Áng, Hà Tĩnh. Phức sắt dạng keo sẽ hấp phụ phenol, xyanua và các độc chất khác. Các độc chất này được làm giàu tới hàm lượng có thể gây độc cấp tính để hình thành cái gọi là “ổ độc di động”. Các kết quả thử độc tính dịch chiết của mẫu cá chết cho thấy cá chết có chứa chất độc như phenol, xyanua khi phân huỷ vào nước vẫn còn tiếp tục gây chết cá biển khác.
Như vậy, có thể kết luận: kim loại nặng không phải là tác nhân hoá học gây ra sự cố; độc tố hoá học (phenol, xyanua,…) cùng với sự đóng góp của hợp chất chứa sắt là nguyên nhân chính gây ra sự cố hải sản chết hàng loạt.
Thế Kha (thực hiện)
Theo Danviet
Manh mối lần ra nguyên nhân gây cá chết hàng loạt
Vệt nước màu đỏ từng xuất hiện ở Quảng Bình, Hà Tĩnh không phải tảo nở hoa hay phù sa, mà là lớp màng sắt - manh mối quan trọng để tìm ra ổ độc di động dưới đáy biển.
Sau hiện tượng hải sản chết bất thường tại một số vùng ven biển miền Trung, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng các bộ ngành liên quan đã lấy mẫu, phân tích. Khi có kết quả ban đầu, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ chủ trì thành lập Hội đồng khoa học công nghệ cấp quốc gia, với ba tổ nghiên cứu các nhóm tác nhân gây cá chết gồm: hóa học, sinh học, khí tượng thủy văn và động lực học biển...
Xuất hiện vệt nước màu đỏ dài khoảng 1km trên vùng biển xã Nhân Trạch (Ảnh: Minh Phong)
Tiến sĩ Vũ Đức Lợi, Phó chủ tịch Hội đồng khoa học tìm nguyên nhân cá chết cho biết, các nghiên cứu đã loại trừ yếu tố động đất, sóng thần, tràn dầu, dịch bệnh và tập trung vào hai nhóm chính là: tảo đỏ và độc tố hóa học. Tuy nhiên, ảnh viễn thám chụp vùng biển từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế không phát hiện dấu hiệu tảo nở hoa trên diện rộng, nên các nhà khoa học cho rằng nó không thể là nguyên nhân khiến cá chết hàng loạt.
Hình ảnh so sánh giữa cá chết do phenol (bên trái) và cá chết tự nhiên.
Để tìm độc tố, giới khoa học lấy lượng mẫu lớn từ Vũng Áng đến Thừa Thiên Huế, đặc biệt là khu vực Formosa với mức độ dày đặc tại 27 điểm. Các chuyên gia đã lấy 289 mẫu nước tầng mặt, tầng đáy tại thời điểm đỉnh triều và chân triều từ ngày 27 đến 29/4; 97 mẫu trầm tích, 135 mẫu sinh vật phù du (nhóm tảo), 34 mẫu động vật đáy, 254 mẫu cá chết và sống để phân tích.
Lúc này, nhóm phát hiện nhiều mẫu cá chết ngoài tự nhiên có hiện tượng bỏng ở đầu và đuôi, đặc biệt là dính mang, thân và mô bị xung huyết.
Các mẫu cá chết có hàm lượng kim loại nặng và asen thấp hơn tiêu chuẩn Bộ Y tế, nhưng một số mẫu có xyanua từ 0,39 đến 40 mg/kg, phenol hàm lượng 5-340 mg/kg. Hai mẫu cá chết khác được Australia kiểm chứng cũng chỉ ra hàm lượng phenol trong cơ, gan và trứng ở mức cao.
"Các mẫu cá đều có hiện tượng biến đổi cấu trúc mô, nhiều mẫu bị dính mang, một số có biểu hiện cháy đầu đuôi - dấu hiệu điển hình của nhiễm độc phenol. Phân tích trầm tích khu vực ven biển bốn tỉnh miền Trung cũng có phenol", ông Lợi cho hay.
Để chắc chắn hơn, nhóm đã thí nghiệm thử độc tính dịch chiết của mẫu cá chết. Dịch từ cá chết khi phân hủy vào nước tiếp tục làm chết các con cá biển khác. "Nếu cá chết do tảo thì không thể khiến con cá đang sống khác chết được", tiến sĩ Lợi nói và đi đến kết luận nguyên nhân gây cá chết không phải thiên nhiên mà chính là con người, cụ thể phenol và xyanua - hai tác nhân hóa học gây ra tình trạng hải sản chết.
Nhận định xyanua xuất hiện trong cá có thể do hoạt động đánh bắt hoặc chất thải từ luyện cốc, nhưng phenol chỉ xuất hiện trong nước thải của luyện cốc, nhóm nhà khoa học "truy" lại Formosa để tìm nguồn thải ra hai độc tố này.
Lớp màng nhầy chứa độc tố bao phủ cá và rặng san hô gây hiện tượng hải sản chết.
Cụ thể, trong quá trình súc rửa đường ống, Formosa sử dụng lượng lớn axit - yếu tố tạo phức với sắt rất tốt. Lượng nước thải có chứa axit xitric trong quá trình súc rửa không được xử lý riêng mà dẫn thẳng tới trạm xử lý nước công nghiệp.
Ngoài ra, quá trình xử lý nước thải lò cốc có lượng lớn sắt, nước thải sau khi xử lý cũng được dẫn về trạm xử lý nước công nghiệp tập trung. Trạm này chỉ đóng vai trò lắng lọc, chứ không xử lý được độc tố như phenol hay xyanua.
Độc tố di chuyển thế nào?
"Tìm được nguồn xả thải và nguyên nhân gây ô nhiễm, các nhà khoa học đặt nghi vấn phenol hay xyanua là dạng tự do tan và sẽ bị nước biển pha loãng, nếu cá chết thì chỉ ở một điểm chứ không thể lan rộng đến Huế", tiến sĩ Lợi nhớ lại.
Các nhà khoa học dự đoán cơ chế di chuyển của các độc chất này dọc theo dòng hải lưu, có thể xuất phát từ một số dấu vết bất thường như nước màu đỏ, đen tại Hà Tĩnh, Quảng Bình. Màng dịch nhày bao bọc cá chết trên rạn san hô, màu nâu đỏ phủ trên trầm tích tại Thừa Thiên Huế - điểm cuối của sự cố.
Từ nhận định trên, nhóm thử độc tính với mẫu nước thu được từ vệt nước màu đỏ gạch ở Quảng Bình ngày 4/5, Hà Tĩnh ngày 5/5 và 12/5 cho kết quả tỷ lệ cá chết 80-100% trong 3-30 phút. Đồng thời khi phân tích mẫu nước, hàm lượng sắt trong cặn lơ lửng cao (gần 25%), hydroxit sắt (gần 50%) và chứa phenol.
Giả thuyết về đường đi của hệ keo sắt và quá trình vận chuyển độc tố.
Màu nước bất thường không phải là màu của tảo nở hoa hay phù sa mà là dạng keo sắt hấp thụ các độc tố như phenol, xyanua - sản phẩm do hoạt động xả thải của con người gây ra. Phân tích màng dịch nhày bao bọc thân cá trên rạn san hô thu được ở Thừa Thiên - Huế ngày 24/4 cũng thu được hàm lượng sắt cao và có chứa phenol.
Từ kết luận trên, các nhà khoa học đã tìm ra mối liên kết giữa dòng nước thải chứa axit, sắt từ súc rửa đường ống và dòng nước thải sinh hóa chứa FeSO4 (sắt II sunfat) cùng phenol, xyanua. Chúng tạo thành hệ keo sắt kéo theo các độc tố khi thải ra biển, còn gọi là "ổ độc di động". Lớp màng nhầy di động này theo chiều của dòng hải lưu từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên - Huế làm cá chết do tắc mang hoặc do tác động của độc tố phenol, xyanua.
Trong quá trình di chuyển, phenol và xyanua được giải phóng dần và dạng keo có thể lắng xuống đáy. Khi có thủy triều và sóng, lớp keo này bị đẩy lên mặt nước tạo thành vệt màu bất thường như đã thấy ở Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Đến Huế, ổ độc di động gặp xoáy nên dừng lại, vì thế Đà Nẵng không bị ảnh hưởng như các địa phương còn lại.
"Bằng luận cứ khoa học một cách độc lập và khách quan, nguyên nhân và thủ phạm gây hải sản chết bất thường đã được chỉ rõ và Formosa đã thừa nhận", ông Lợi nói.
Hiện tượng cá chết hàng loạt khởi nguồn từ một số lồng nuôi cá bè gần khu công nghiệp Vũng Áng (Sơn Dương, Kỳ Anh, Hà Tĩnh), sau đó lan đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế khiến đời sống người dân 4 tỉnh miền Trung lao đao.
Để tìm nguyên nhân, 7 bộ ngành cùng các viện nghiên cứu, 100 nhà khoa học trong và ngoài nước đã vào cuộc. Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả điều tra sơ bộ, khoanh vùng hai nhóm nguyên nhân là độc tố hóa học thải ra từ hoạt động của con người và hiện tượng tảo nở hoa. Tuy nhiên, nguyên nhân tảo nở hoa vấp phải sự phản ứng của giới khoa học và người dân.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã mời chuyên gia từ Đức, Mỹ, Israel tham gia điều tra nguyên nhân cá chết, đồng thời lập đoàn liên ngành gồm đại diện các bộ và địa phương tổng kiểm tra Khu kinh tế Vũng Áng, nơi Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, có hệ thống ngầm xả thải ra biển.
Ngày 30/6, Formosa đã thừa nhận là nguyên nhân trực tiếp gây ra thảm họa cá chết và cam kết bồi thường 500 triệu USD để khắc phục hậu quả và cải tạo môi trường.
Phạm Hương (VNEXPRESS)
Vụ Formosa: Nguy cơ tái ô nhiễm gây ảnh hưởng đến phục hồi hệ sinh thái biển Trao đổi với Dân trí xung quanh vấn đề Formosa thừa nhận gây ô nhiễm môi trường dẫn đến việc cá chết hàng hoạt ở miền Trung, PGS.TS Trần Hồng Côn - Khoa hóa (ĐHKHTN-ĐHQGHN) bày tỏ: "Vấn đề quan trọng nhất ở đây đó là nguy cơ tái ô nhiễm sẽ làm ảnh hưởng đến việc phục hồi hệ sinh thái biển"...