Không quân VN chuyển mình gian nan sau khi Liên Xô sụp đổ
MiG-21, Su-22 dần trở nên lạc hậu khi không quân thế giới chuyển sang thời máy bay chiến đấu hạng nặng hiện đại. Sức mạnh Không quân Việt Nam suy giảm nghiêm trọng.
Các phi công Trung đoàn 923 chia sẻ kinh nghiệm sau buổi bay an toàn
Những biến cố chính trị năm 1991 đã dẫn đến sự tan rã của Liên bang Xô viết, Việt Nam mất đi nguồn viện trợ quan trọng, trong khi đất nước vừa bắt đầu công cuộc Đổi Mới, kinh tế còn quá khó khăn. Thế nhưng, trong bất kì hoàn cảnh nào, nhiệm vụ hiện đại hóa không quân, đảm bảo khả năng tác chiến bảo vệ Tổ quốc vẫn được chú trọng.
Hiện đại hóa lực lượng với Su-27
Lúc bấy giờ, các máy bay chiến đấu MiG-21 và Su-22 mang tên lửa đối không tầm ngắn đã trở nên không hiệu quả. Không quân thế giới đã chuyển sang thời của các máy bay chiến đấu hạng nặng, với radar và các cảm biến mạnh, mang tên lửa đối không tầm trung-xa và vũ khí chính xác cao. Điều đó khiến sức mạnh của Không quân Nhân dân Việt Nam bị suy giảm nghiêm trọng, đòi hỏi phải có các biện pháp ứng phó kịp thời.
Năm 1994, Việt Nam ký hợp đồng đầu tiên, đặt mua 5 máy bay chiến đấu Su-27SK và 1 máy bay huấn luyện chiến đấu Su-27UBK từ Nga, trở thành quốc gia thứ hai ở châu Á mua dòng máy bay này. Điều đáng nói là Việt Nam đã mua các máy bay này với giá thị trường, thể hiện một nỗ lực rất lớn trong hiện đại hóa trang bị – khí tài.
Su-27 được đánh giá là tiêm kích tốt nhất thế kỉ XX, với tính năng vận động rất mạnh, không chiến tốt,có tốc độ tối đa Mach 2.25, bán kính chiến đấu tối đa 3.530km, mang 1 pháo GSh-30-1 30mm và 8.000kg vũ khí các loại, trong đó có các tên lửa không đối không tầm ngắn R-73, tầm trung R-27, R-77.
Đội hình tiêm kích Su-27 của Không quân Nhân dân Việt Nam
6 chiếc Su-27 được biên chế cho Trung đoàn Không quân 937, đóng tại sân bay Thành Sơn, Phan Rang. Ngày 4-8-1995, Trung đoàn 937 đã tổ chức bay thử thành công tiêm kích Su-27. Ngày 14-9-1997, Trung đoàn 937 tổ chức cho Su-27 bay ra Trường Sa tuần tiễu thành công, đảm bảo khả năng trực chiến sẵn sàng bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Bước sang năm 1996, Việt Nam kí hợp đồng mua thêm 2 máy bay Su-27SK và 4 máy bay Su-27UBK. Sở dĩ có sự thay đổi này, là bởi Việt Nam không chỉ muốn đảm bảo năng lực không chiến, mà còn muốn nâng cao khả năng tấn công đối đất và đối hải. Biến thể huấn luyện Su-27UBK có hai người lái, nên rất thuận tiện cho việc sử dụng các loại vũ khí chính xác cao như tên lửa chống hạm Kh-31A, chống radar Kh-31P, tên lửa không đối đất Kh-29 … Trong hoàn cảnh Việt Nam phải đối phó với những tranh chấp, xung đột trên biển Đông, thì việc có trong biên chế các máy bay như Su-27UBK là rất cần thiết.
Hai chiếc máy bay Su-27SK đầu tiên đã được máy bay An-24 vận chuyển đến sân bay Thành Sơn, lắp ráp, bay thử và bàn giao cho Không quân Việt Nam. Chuyến bay sau đó mang 2 máy bay Su-27UBK cũng đã diễn ra thuận lợi. Nhưng chuyến bay cuối cùng ngày 6-12-1997 đã gặp tai nạn. Rất may, lô hàng đã được bảo hiểm và Nga đã thay thế hai chiếc Su-27UBK bằng hai chiếc Su-27PU cho Việt Nam. Su-27PU thực ra là một phiên bản nâng cấp của máy bay huấn luyện Su-27UB, là tiền đề của máy bay chiến đấu hạng nặng Su-30 sau này.
Cũng trong giai đoạn này, năm 1996, Việt Nam đã cố gắng đàm phán với Pháp đã mua các máy bay chiến đấu Dassault Mirage 2000, nhưng không thành công vì lệnh cấm vận quân sự của Mỹ với Việt Nam.
Bên cạnh việc mua sắm các máy bay mới, Việt Nam cũng tăng cường nâng cấp các máy bay cũ, bởi một số nhỏ máy bay chiến đấu hiện đại Su-27 là chưa đủ để đảm bảo năng lực tác chiến.
Tháng 3-2000, Ấn Độ kí Hiệp định về hợp tác quốc phòng với Việt Nam, tiến hành bảo dưỡng và sửa chữa toàn bộ các máy bay chiến đấu MiG-21 đã cũ của Không quân Nhân dân Việt Nam. Năm 2010, Ấn Độ giúp Việt Nam nâng cấp một số máy bay MiG-21MF, MiG-21bis lên chuẩn MiG-21 Bison.
Video đang HOT
Một chiếc tiêm kích MiG-21 Bison
Gói nâng cấp thay thế radar điều khiển hỏa lực cũ kĩ RP-21MA, RP-22 bằng radar Kopyo hiện đại hơn, có thể phát hiện mục tiêu có diện tích phản xạ radar RCS 5m2 từ khoảng cách 80km ở bán cầu trước và 40km ở bán cầu sau, theo dõi cùng lúc 10 mục tiêu và tiến công đồng thời 2 mục tiêu.
Đặc biệt, radar Kopyo cũng giúp MiG-21 Bison có khả năng tác chiến đối đất, đối hải rất mạnh. Đồng thời, MiG-21 Bison cải tiến cũng có thể mang các tên lửa tiên tiến như R-27, R-77 … Trong các cuộc tập trận chung với Mỹ, các máy bay MiG-21 Bison nâng cấp có thể không chiến rất hiệu quả với các máy bay F-15, F-16. Cùng với đó, một số không nhỏ các máy bay cường kích Su-22M4 của Cộng hòa Séc và Ba Lan cũng được bán cho Việt Nam.
Su-30MK2 để bảo vệ chủ quyền biển đảo
Trước tình hình biển Đông đang nóng dần lên, Không quân Nhân dân Việt Nam không thể chần chừ, mà phải nhanh chóng tiến thẳng lên chính qui, hiện đại. Máy bay chiến đấu Su-30 là lựa chọn tốt nhất. Đây là loại máy bay chiến đấu được phát triển dựa trên máy bay huấn luyện chiến đấu Su-27UB, kế thừa và phát triển tính năng không chiến mạnh mẽ của Su-27. Đồng thời Su-30 có hai chỗ ngồi, nên thuận lợi cho việc sử dụng các vũ khí tiến công chính xác cao, đặc biệt là vũ khí đối đất và đối hải.
Tiêm kích Su-30MK2 của Trung đoàn Không quân 923 luyện tập chiến đấu
Tháng 11 năm 2003, Việt Nam bắt đầu đặt mua 4 chiếc máy bay Su-30MK2 đầu tiên. Đây là phiên bản Su-30MK hiện đại hóa mạnh, do KnAPPO sản xuất để bán cho Trung Quốc và Việt Nam. Tiếp đó, tháng 1 năm 2009, Việt Nam kí tiếp hợp đồng mua 8 máy bay Su-30MK2, cùng các vũ khí, khí tài đi kèm. 12 máy bay Su-30MK2 được biên chế cho Trung đoàn Không quân 935. Còn tất cả các máy bay Su-27 được chuyển cho Trung đoàn Không quân 940, đóng tại sân bay Phù Cát.
Đặc biệt, năm 2010, Việt Nam tiếp tục đặt mua 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2, trang bị cho Trung đoàn Không quân 923 đóng tại sân bay Sao Vàng, Thanh Hóa. Như vậy, đến nay Việt Nam đã có 3 trung đoàn không quân mạnh, trang bị các máy bay chiến đấu hiện đại Su-27 và Su-30MK2.
Vào tháng 4 và tháng 9 năm 2013, các Trung đoàn 923 và Trung đoàn 940 đã tổ chức bay đêm, tiến tới trực chiến 24/24h. Các phi công Việt Nam đã tiếp thu nhanh và làm chủ rất tốt các loại máy bay chiến đấu hiện đại này.
Nhìn lại chặng đường dài kể từ sau ngày thống nhất đất nước, chúng ta có thể tự hào rằng: Trong những năm tháng gian khó nhất, Đảng, Nhà nước và Quân đội vẫn cố gắng hết sức để đảm bảo năng lực chiến đấu cho Không quân Nhân dân Việt Nam: tiếp thu máy bay của chế độ cũ, nhận viện trợ máy bay Su-22, nâng cấp máy bay MiG-21, mua sắm các máy bay chiến đấu Su-27 và Su-30MK2 …
Ngày nay, khi kinh tế đã không còn quá khó khăn, lực lượng không quân, cùng các quân binh chủng khác càng được hiện đại hóa mạnh. Tất cả đã giúp cho những cánh bay oai hùng của Không quân Nhân dân Việt Nam có thể cất cao kiêu hãnh trên bầu trời, bảo vệ chủ quyền biển và hải đảo của Tổ quốc.
Theo Xahoi
Cặp kỳ phùng địch thủ không chiến trên bầu trời Việt Nam
Trong chiến tranh Việt Nam, MiG-21 của Việt Nam và tiêm kích F-4 chủ lực của Mỹ đã tạo nên một cặp "kỳ phùng địch thủ" trên bầu trời.
Máy bay MiG-21 của Không quân Việt Nam
Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ được coi là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa. Do vậy, ở chiến trường, Việt Nam được ưu tiên nhận những loại vũ khí hiện đại nhất. Không chỉ là nơi thể hiện trình độ khoa học kỹ thuật của Liên Xô và Mỹ mà chiến trường Việt Nam còn là nơi kiểm nghiệm lại những vũ khí hiện đại được thiết kế.
MiG-21 tiêm kích số một của phe xã hội chủ nghĩa
Mikoyan-Gurevich MiG-21 ( tên ký hiệu của NATO : Fishbed) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế và chế tạo bởi cục thiết kế Mikoyan-Gurevich tại Liên bang Xô viết. Hơn 50 quốc gia trên 4 lục địa đã sử dụng loại máy bay này, hiện nay, MiG-21 vẫn đang hoạt động trong không quân một số quốc gia sau 50 năm khi nó cất cánh lần đầu tiên. MiG-21 đã đạt được một số kỷ lục hàng không như:
1. Máy bay phản lực được sản xuất nhiều nhất trong lịch sử hàng không,
2. Máy bay chiến đấu được sản xuất nhiều nhất từ sau Chiến tranh Thế giới II.
3. Máy bay chiến đấu có thời gian sử dụng lâu nhất.
Tổng cộng đã có 10.158 (một số nguồn nói 10.645) chiếc MiG-21 được chế tạo tại Liên Xô . MiG-21 có khả năng đạt đến vận tốc Mach 2, vận tốc này vượt qua tốc độ tối đa của nhiều kiểu máy bay chiến đấu hiện đại sau này.
MiG-21 được xuất khẩu rộng rãi và tiếp tục được sử dụng ở nhiều nước, mặc dù đã có thể được xem như là lỗi thời. Chiếc máy bay này có hệ thống điều khiển, động cơ, vũ khí và điện tử đơn giản, điển hình cho thiết kế quân sự của thời kỳ Liên Xô. Tuy có công nghệ kém hơn so với những máy bay chiến đấu mà nó đối mặt nhưng giá thành sản xuất rẻ và chi phí bảo dưỡng thấp đã khiến MiG-21 được ưa chuộng trong quân đội của nhiều quốc gia khối Đông Âu và trên toàn thế giới.
Tải trọng cất cánh thông thường của các biến thể MiG-21 sử dụng trong chiến tranh Việt Nam là dưới 8 tấn và có tầm bay xa ngắn khoảng 1.500km. Thành phần vũ khí của MiG-21 yếu hơn đáng kể so với Phantom của Mỹ: ban đầu, MiG-21 chỉ mang được 2 tên lửa không đối không tầm trung R-3S (Vympel K-13) tự dẫn bằng tia hồng ngoại, sau này có bổ sung thêm nhưng MiG-21 cũng chỉ mang được 4 tên lửa loại này. Ngoài ra, MiG-21 chỉ được trang bị 1 pháo 23 hoặc 30mm (trong hàng loạt biến thế không được trang bị pháo này). Tuy nhiên, những đặc điểm bay còn lại của MiG-21 không hề thua kém đối thủ Mỹ: vận tốc bay tối đa - 2.175-2.300km/h, trần bay thực tế - 18.000 - 19.000m.
"Át chủ bài" F-4 của Không quân Mỹ
Phantom II đã được dùng trong quân đội Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1996 và là máy bay tiêm kích ưu thế trên không, cũng như là máy bay chiến đấu ném bom chính của Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến trong Chiến tranh Việt Nam. F-4 cũng được trang bị cho quân đội của nhiều nước khác, và cho đến năm 2001 vẫn còn hơn 1.000 máy bay F-4 đang được sử dụng ở 11 nước trên toàn thế giới.
Máy bay F-4 Phantom II của Mỹ với các loại vũ khí
F-4 Phantom II là một loại máy bay tiêm kích-ném bom tầm xa siêu âm hai chỗ ngồi hoạt động trong mọi thời tiết, được hãng McDonnell Douglas thiết kế và chế tạo vào năm 1958 cho Hải quân Hoa Kỳ.
Vận tốc bay tối đa của F-4 là 2.260km/h, trần bay thực tế 16.600-17.900m, tầm bay xa thực tế không có thùng dầu phụ là 2.380km
F-4 được trang bị radar mạnh, cũng như vũ khí "có một không hai" như 4 quả tên lửa đối không tầm ngắn AIM-9 Sidewinder (sau này có giai đoạn được thay bằng AIM-4D) và 4 tên lửa AIM-7 Sparrow tầm trung gắn trên thân.
Các phiên bản nâng cấp của F-4 có khả năng mang các loại tên lửa đối không: AIM-120 AMRAAM, AAM-3, IRIS-T, Skyflash. Có đến 8.480kg vũ khí gắn trên 9 đế trên cánh và thân, bao gồm bom thông thường, bom chùm, bom dẫn đường bằng laser, rocket, tên lửa đối đất, tên lửa đối hạm, vũ khí hạt nhân.
Kỳ phùng địch thủ trên bầu trời Việt Nam
MiG-21 giành được những danh tiếng đầu tiên của mình trong Chiến tranh Việt Nam. Dù MiG-21 thiếu radar tầm xa, tên lửa và mang bom hạng nặng so với những máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ cùng thời của Mỹ, nhưng MiG-21 tỏ ra là một đối thủ đầy thách thức trong tay những phi công lão luyện, đặc biệt khi được sử dụng trong tấn công tốc độ cao và công kích nhanh dưới sự điều khiển của GCI . MiG-21 được sử dụng để chặn đứng những nhóm máy bay xung kích F-105 được F-4 bay hộ tống rất hiệu quả, đặc biệt trong việc bắn hạ những máy bay Mỹ hay bắt chúng phải giảm trọng tải bom mang trên mình.
Sau khi ngừng các phi vụ ném bom trong Chiến dịch Sấm Rền vào năm 1968 , tỷ lệ giành chiến thắng trong không chiến của các máy bay Mỹ rất thấp, khi phải chiến đấu chống lại những máy bay nhỏ, nhanh nhẹn như những chiếc MiG trong thời gian đầu của Chiến tranh Việt Nam. Dần dần, Không quân Hoa Kỳ đã phải thành lập chương trình huấn luyện không chiến khác biệt như trong trường huấn luyện TOPGUN, mục đích là sử dụng những máy bay nhỏ, nhanh nhẹn đóng giả làm MiG-17 và MiG-21 làm mục tiêu huấn luyện cho các phi công. Người Mỹ đã sử dụng hai máy bay có tốc độ cận âm là A-4 Skyhawk và F-5 Tiger II để thực hiện công việc này.
F-4 là máy bay chiến đấu cuối cùng của Mỹ trong thế kỷ 20 tạo nên "Át" (phi công bắn rơi được từ 5 máy bay địch trở lên): Trong chiến tranh Việt Nam, Không quân có 1 phi công và 1 sĩ quan hệ thống vũ khí và Hải quân có 1 phi công và 1 sĩ quan theo dõi radar (RIO: Radar Intercept Officer) đạt danh hiệu "Át".
Những chiếc F-4C của Không quân Hoa Kỳ ghi được chiến công không chiến đầu tiên trước một chiếc MiG-17 của Bắc Việt Nam vào ngày 10 tháng 7 năm 1965, sử dụng tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder. Ngày 24 tháng 7 năm 1965, một chiếc Phantom thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 47 tạm thời bố trí tại Việt Nam đã trở thành chiếc máy bay Hoa Kỳ đầu tiên bị tên lửa đất-đối-không (SAM) bắn hạ, và vào ngày 5 tháng 10 năm 1966, một chiếc F-4C thuộc Không đoàn Tiêm kích Chiến thuật 8 trở thành chiếc máy bay phản lực Hoa Kỳ đầu tiên bị bắn hạ bởi tên lửa không-đối-không do một chiếc MiG-21 bắn ra.
MiG-21 của Không quân Việt Nam đã giành chiến thắng trước F-4 Phantom II của Mỹ
Tuy nhiên, kết quả cuối cùng của cuộc chiến giữa của máy bay MiG-21 và Phatom trên bầu trời Việt Nam đã kết thúc với thất bại hoàn toàn thuộc về phía máy bay của Mỹ. Trong suốt thời gian chiến tranh từ năm 1966 đến 1972, 54 chiếc MiG-21 đã bị tiêu diệt bởi chiến đấu cơ F-4, cũng trong giai đoạn này, với 20 chiếc MiG-21 đầu tiên, Không quân Việt Nam đã tiêu diệt được 103 chiếc Phantom. Ngoài ra, khi mất một máy bay Phatom cũng đồng nghĩa với việc 2 phi công bị chết hoặc bị bắt làm tù binh.
Kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng rất nhiều đến ngành chế tạo máy bay quân sự ở Mỹ cũng như ở Liên Xô. Mỹ đã đáp trả thất bại của Phantom trong những trận chiến trên không bằng việc chế tạo máy bay có tính cơ động cao thế hệ 4 như F-15, F-16 được cho là hơn hẳn MiG-21 trong những trận chiến cơ động gần.
Tuy nhiên, sau khi chiến tranh tại Việt Nam kết thúc, sự cạnh tranh giữa MiG-21 và Phatom trên bầu trời vẫn chưa chấm dứt. MiG-21 và F-4 lại đối đầu trên kênh đào Suez, trên bầu trời Sinai, ở châu thổ sông Nile, và Syria năm 1973, ở Lebanon vào cuối thập niên 70 - đầu thập niên 80, vào những năm 80-88 của cuộc chiến tranh Iran - Iraq.
Xác chiếc máy bay F-4 Phantom II của Mỹ được trưng bày tại Việt Nam
Theo xahoi
Những 'mắt lửa' bảo vệ bầu trời Tổ quốc Biên đội Su30, tên lửa S300, pháo 57mm... của lực lượng phòng không không quân Việt Nam là những 'mắt lửa', ngày đêm canh gác và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ bầu trời của tố quốc. Ngày 22-10-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Quân chủng Phòng không - Không quân trên cơ sở hợp nhất Bộ...