“Không qua 2 vấn đề khó khăn, Việt Nam sẽ thành nền kinh tế thất bại”
“30 năm đổi mới, Hàn Quốc đã đưa thu nhập bình quân từ 100 USD/người lên 10.000 USD/người; Việt Nam từ 100 USD lên được 2.000 USD/người. Đây là điều chúng ta phải suy nghĩ, khi nguồn lực ta còn hơn họ”, chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên đặt vấn đề khi đề cập đến vấn đề sử dụng nguồn lực trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
Nói với đông đảo các doanh nhân tại một hội thảo kinh tế diễn ra chiều ngày 19/6, ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, hiện là lúc kinh tế Việt Nam đang cho thấy có những chuyển dịch các nguồn lực.
Theo đó, hội nhập làm thay đổi trò chơi cơ bản, làm tư duy thay đổi. Vị chuyên gia này cho rằng, trong thời đại toàn cầu hoá, hội nhập, nếu doanh nghiệp (DN) cứ kêu thiếu tiền, thiếu vốn, thiếu các nguồn lực thì quá kém.
“Nếu chúng ta có chính sách tốt, nguồn lực tốt thì sẽ có tất cả những điều kiện cần, nhưng chúng ta đã không làm nguồn lực hội nhập trở thành sức mạnh chúng ta mong muốn. 30 năm đổi mới, Hàn Quốc đã đưa thu nhập bình quân từ 100 USD/người (năm 1963) lên 10.000 USD/người (năm 1995-PV); Việt Nam từ 100 USD lên được 2.000 USD/người. Đây là điều chúng ta phải suy nghĩ, khi nguồn lực ta còn hơn họ”, ông Thiên trầm ngâm.
Theo ông, có lẽ sự dịch chuyển nguồn lực là quan trọng thế nhưng chúng ta lại làm nguồn lực “bất động”. Nguồn lực phải “động” mới tạo nên sự dịch chuyển.
PGS.TS Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, điểm sống còn trong hội nhập là phải bám được vào các điều kiện FTA, đáp ứng được các hàng rào kỹ thuật
Phải bám vào hội nhập để “bay” lên
Trong thế giới hiện đại, tư duy về nguồn lực đã thay đổi. Phải đặt câu hỏi rằng, tại sao nước ngoài đầu tư vào Việt Nam lại giàu hơn trong khi họ mang vốn vào đây? Kinh tế toàn cầu đang tạo ra những sự chuyển động lớn với những xu thế lớn và Việt Nam phải biết “mượn” những xu thế đó để vươn lên.
Nếu như vẫn lấy nguồn lực phát triển cơ bản là nông dân như cách đây 30 năm thì sẽ thất bại. Toàn cầu hoá phải là lấy nguồn lực là nhân lực chất lượng cao, công nghệ cao, phải xem lại chính sách sử dụng nhân tài, hệ thống đào tạo ra nhân lực có đẳng cấp.
Ông Thiên đánh giá, Việt Nam đang phải đối mặt với 2 vấn đề khó khăn mà nếu không vượt qua được thì sẽ trở thành một nền kinh tế thất bại.
Khó khăn thứ nhất là liệu có vượt được sự lệ thuộc nước ngoài hay không? Một nền kinh tế mà phải nhập nguyên liệu quá nhiều, nhập khẩu tập trung vào một nước nên độ rủi ro lớn. “Một nền công nghiệp chỉ dựa vào bên ngoài thì làm sao phát triển được?”, vị chuyên gia trăn trở.
Video đang HOT
Khó khăn thứ hai đó là khi ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) tiêu chuẩn quá cao, với những đối tác rất lớn thì liệu rằng Việt Nam có năng lực bám vào “đội hình hội nhập lớn” để bay lên không?
Cái khó của hội nhập là điều kiện cực kỳ khắt khe, đặc biệt là các hàng rào phi thuế quan. Điểm sống còn chính là ở những hàng rào này. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, những nước đi sau vượt lên được là nhờ bám vào được những tiêu chuẩn này.
Vì vậy, sau khi ký kết được những FTA tuyệt vời thì Việt Nam phải tận dụng được những FTA đó, còn nếu bỏ qua quá nhiều cơ hội như khi gia nhập WTO thì nhiều khả năng Việt Nam sẽ “lên bờ xuống ruộng” – vị chuyên gia lo ngại.
Do đó theo ông, tốc độ tăng trưởng GDP 6,3% hay 6,5% không quan trọng mà quan trọng là phải đáp ứng được các điều kiện của các FTA, phải bám vào được những điều kiện của những hiệp định đó mà phát triển. Trong những cuộc chơi này, nếu “ngã” thì sẽ rất khó để vực dậy.
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cũng nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nguồn lực thể chế. Phải thiết kế lại nguồn lực này, coi trọng thúc đẩy kinh tế tư nhân, Nhà nước lùi về chức năng kiến tạo. Nền kinh tế phải là nền kinh tế thị trường lành mạnh.
Mục tiêu doanh thu chỉ là ngọn, không phải là gốc
Trao đổi thêm về vấn đề này, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, ông Trương Đình Tuyển cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang tăng trưởng cực chậm như hiện nay, Việt Nam không dễ gì đạt mục tiêu 6,7%.
Thủ tướng quyết tâm không điều chỉnh chỉ tiêu, phấn đấu bằng được mục tiêu đặt ra. Theo ông Tuyển, con đường duy nhất để đạt mục tiêu đó là cải cách môi trường kinh doanh
Tuy nhiên, theo ông, nguồn lực về vốn bị hạn chế do khả năng tăng tín dụng, tăng đầu tư là không có do tổng cầu rất căng thẳng. Tín dụng đang tăng lên, nên rất khó hạ lãi suất.
Trong khi đó, phong trào khởi nghiệp mặc dù được khuyến khích gần đây nhưng lại đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó, yếu tố đầu tiên là phải có một môi trường kinh doanh ít rủi ro, vấn đề này là thách thức lớn.
Ngoài ra, xu hướng tái cơ cấu DN tuy đã diễn ra nhưng chưa bài bản. Ông Tuyển cho rằng, khi hội nhập với hàng loạt dòng thuế được đưa về bằng 0% thì cơ hội kinh doanh của DN là rất lớn để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, DN phải nhận thức được rằng, chiến lược tăng trưởng của DN là chiến lược nâng cao sức cạnh tranh.
Cụ thể, vị chuyên gia góp ý, khi cạnh tranh trên thị trường đã có đối thủ cạnh tranh thì DN cần tạo ra được sự khác biệt từ chất lượng đếu mẫu mã hàng hóa, dịch vụ. Còn nếu cạnh tranh trên thị trường chưa có đối thủ cạnh tranh thì phải rất sáng tạo.
“Đặt ra doanh thu là cái ngọn, không phải gốc. Nếu không nâng cao sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần thì không thể có chuyện tăng doanh thu”, ông Trương Đình Tuyển khẳng định.
Bích Diệp
Theo Dantri
Tìm lực đẩy cho xuất khẩu gạo
Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2016 dự kiến khoảng 6,5 triệu tấn, chênh lệch không đáng kể so với năm 2015. Bên cạnh những cơ hội trước các FTA, thị trường AEC hay TPP, ngành lúa gạo Việt Nam năm nay được dự báo còn nhiều thách thức lớn về hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Theo nhận định mới đây của Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA), năm 2016, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ bớt khó khăn hơn năm 2015. Thế nhưng giá bán và số lượng xuất khẩu như thế nào sẽ còn tùy thuộc ít nhiều vào diễn biến thời tiết.
Năm vừa qua, Việt Nam đã xuất khẩu chính ngạch 6,568 triệu tấn gạo, đạt 2,68 tỷ USD, tăng 4% về lượng nhưng giảm 4% về giá trị so với năm 2014, đứng sau Ấn Độ (hơn 10,2 triệu tấn) và Thái Lan (gần 9,6 triệu tấn).
Khả năng cạnh tranh thấp
Thực tế cho thấy, nếu không nhờ hai hợp đồng lớn xuất khẩu gạo đến từ Philippines, Indonesia với số lượng 1,5 triệu tấn hồi tháng 10/2015 thì xuất khẩu gạo khó mà lành mạnh hóa tài chính. Mặc dù có chính sách hỗ trợ mua gạo tạm trữ nhưng doanh nghiệp xuất khẩu vẫn gặp khó khăn về đầu ra, giá cả, áp lực về vốn, nợ vay...
Được biết, sau khi ký Hiệp định TPP, thị trường này sẽ có nhu cầu nhập 80.000 tấn gạo/năm, giúp tăng thêm cơ hội xuất khẩu gạo Việt. Tuy vậy, theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam, cũng cần có năng lực, sự quyết đoán và chủ động của VFA khi hội nhập TPP.
Trước vấn đề hội nhập của xuất khẩu gạo, theo nhận định gần đây của Ts Nguyễn Đỗ Anh Tuấn (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn), hiệu quả và khả năng cạnh tranh của ngành hàng này còn thấp. Bởi vì tăng trưởng sản xuất lúa gạo chủ yếu theo chiều rộng và có xu hướng giảm dần, chất lượng gạo chưa cao, chế biến sâu còn hạn chế.
Cũng theo Ts Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, nguyên nhân chính là do thể chế và chính sách liên quan đến ngành lúa gạo thay đổi chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan trong phát triển ngành lúa gạo trước hội nhập.
Ông Tuấn cho rằng trong xuất khẩu và tiêu thụ nội địa chưa tạo sân chơi bình đẳng cho các tác nhân. Nhất là VFA chưa thực sự đại diện cho tất cả các tác nhân sản xuất và kinh doanh trong phát triển ngành lúa gạo.
Theo các chuyên gia, VFA hiện nay hoạt động như một cơ quan quản lý ngành hàng, nhất là quản lý việc kinh doanh xuất khẩu gạo dựa trên các biện pháp hành chính là chủ yếu. Điều này làm cho thị trường xuất khẩu cứng nhắc, thiếu năng động.
Trong khi đó, VFA đã bỏ qua một số vai trò mà các hiệp hội ngành hàng như xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng, quảng bá thương hiệu, ổn định nguồn cung trong nước, mở rộng hội viên theo liên kết dọc nhằm kết nối hợp tác và phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng hiệu quả hơn...
Theo Ts Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, đối với VFA, cần thay đổi cơ chế hoạt động và phương thức kinh doanh trở thành Hội đồng ngành hàng. VFA cũng nên giảm bớt sự phụ thuộc vào các hợp đồng chính phủ và các hình thức phân bổ chỉ tiêu xuất khẩu, chỉ tiêu thu mua tạm trữ theo phương thức hành chính.
Áp lực cạnh tranh đối với gạo Việt không chỉ là giá mà còn là chất lượng, thương hiệu sản phẩm.
Nâng vị thế xuất khẩu gạo
Theo Ts. Phạm Nguyên Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đang ở phân khúc trung bình và thấp. Gạo xuất khẩu có chất lượng cao chiếm tỷ trọng thấp, chất lượng gạo chưa đồng đều và mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn yếu.
Thống kê cho thấy Việt Nam hiện có hơn 200 doanh nghiệp có quy mô trung bình và lớn tham gia vào hệ thống thương mại gạo. Thế nhưng việc sử dụng thương hiệu trên thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu còn rất hạn chế.
Ts Phạm Nguyên Minh nhận xét Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia thị trường toàn cầu chậm hơn so với nhiều nước. Vì vậy, chúng ta không thể đứng ngoài xu hướng này mà phải tham gia, lựa chọn cho mình một cách thức tham gia đúng. Nhất là phải nâng cấp vị thế xuất khẩu gạo trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Ông Minh cho rằng chỉ có tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu chúng ta mới có thêm cơ hội mở rộng thị trường, khai thác được lợi thế so sánh, tiếp thu có hiệu quả sự chuyển giao vốn, công nghệ và kiến thức kinh doanh hiện đại.
Theo giới chuyên gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ giải quyết được một trong những vấn đề mà nhiều nhà sản xuất quan tâm. Đó là chúng ta sẽ có được thông tin thị trường cần cái gì, cần vào thời điểm nào, cần bao nhiêu và giá cả ra sao, có thể thực hiện "sản xuất và bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái chúng ta có".
Kinh nghiệm ở Thái Lan cho thấy, trong bối cảnh thị trường gạo thế giới đang phải đối mặt với những áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt, để cạnh tranh thành công, Thái Lan đã chuyển đổi nhanh chóng sang hệ thống sản xuất và công nghệ tiên tiến để cải thiện chất lượng sản phẩm.
Chính vì vậy, nước này hiện là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Năm 2016, nước này xuất khẩu gần 9,6 triệu tấn, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo toàn cầu dù sản lượng chỉ chiếm khoảng 5% tổng sản lượng gạo thế giới.
Theo Thời Báo Kinh Doanh
GS.TS Trần Đình Thiên:"Hội nhập, phải làm sao biến con kiến thành thỏ" GS.TS. Trần Đình Thiên: "Trong hội nhập, quan trọng nhất là phải làm sao biến con kiến thành con thỏ, đừng cố gắng quá nhiều trong việc tăng tốc con kiến" Nhìn lại kinh tế Việt Nam trong năm 2015, GS.TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, những tăng trưởng kinh tế nhìn thấy rất rõ. Đó...