Không làm theo chuỗi, nông sản Việt dễ thua trên “sân nhà”
Xây dựng và phát triển các chuỗi giá trị nông sản, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế là một yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế hiện nay.
Kết quả còn khiêm tốn
Theo kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông thôn, cả nước có 20,3% tổng số doanh nghiệp nông lâm thủy sản có thực hiện liên kết; 35,5% tổng số hợp tác xã nông lâm thủy sản có liên kết với doanh nghiệp, nông dân và hợp tác xã khác; 54,4% số hợp tác xã có liên kết cung ứng sản phẩm dịch vụ đầu vào; 21,4% liên kết tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ đầu ra; 13,5% liên kết góp vốn đầu tư sản xuất và 10,7% liên kết theo hình thức khác. Đã có 619.300 hộ tham gia liên kết sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn (CĐML).
Tỷ lệ chuỗi giá trị gạo khép kín đạt 4%. Ảnh: T.L
Trong thời gian qua, đã có một số chuỗi cung ứng nông sản ứng dụng thành công công nghệ mới trong quản lý chuỗi cung ứng như ứng dụng công nghệ thông tin để kết nối sản xuất và tiêu dùng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản nhằm gia tăng giá trị.
Hiện đã có một số chuỗi cung ứng như: Chuỗi xoài (Hợp tác xã Mỹ Xương ở Đồng Tháp), thanh long ( Công ty TNHH Hoàng Phát Fruit và Công ty TNHH chế biến trái cây Yasaka) đã áp dụng công nghệ hiện đại vào đổi mới chuỗi cung ứng như công nghệ blockchain vào truy xuất nguồn gốc và quản lý chuỗi nhằm giảm chi phí và minh bạch thông tin và tăng cường lòng tin của người tiêu dùng.
Điều đáng ghi nhận là, hiện các chuỗi liên kết được phát triển theo 3 cấp độ: Sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm cấp tỉnh và nhất là sản phẩm địa phương OCOP. Trong nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia, chuỗi giá trị lúa gạo đã nhận được nhiều sự hỗ trợ từ sản xuất, liên kết trong sản xuất – tiêu thụ thông qua hợp đồng thương mại. Nhờ đó, tỷ lệ chuỗi giá trị gạo khép kín đạt 4%.
Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Trung Kiên – Bộ môn Thị trường và ngành hàng (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn) mặc dù nhận được nhiều sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc tổ chức liên kết giữa hợp tác xã, nông dân với doanh nghiệp trong chuỗi giá trị nông sản nhưng tỷ lệ hình thành chuỗi giá trị nông sản hoàn chỉnh từ người sản xuất (nông dân/hợp tác xã/tổ hợp tác) với doanh nghiệp vẫn còn chiếm tỷ lệ rất thấp, phần lớn các liên kết trong chuỗi vẫn rất lỏng lẻo, chủ yếu thông qua trung gian.
Video đang HOT
Liên kết, con đường tất yếu
Thương mại nông sản quốc tế đang chứng kiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ở một số nền kinh tế lớn như Mỹ và một số nước. Một nghiên cứu của Đại học Southern California cho thấy, các hàng rào phi thuế làm tăng chi phí giao dịch gấp 3 lần so với mức thuế quan, tăng chi phí trực tiếp và gián tiếp, đồng thời làm giảm tính cạnh tranh của hàng nông sản.
“Chủ nghĩa bảo hộ thương mại tại một số thị trường lớn cùng với xu hướng gia tăng yêu cầu về an toàn thực phẩm khiến nông sản xuất khẩu có nguy cơ bị trả lại, mất quyền xuất khẩu hoặc gia tăng tần suất kiểm tra do chưa đáp ứng các quy định. Trong khi đó, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới tiếp tục được mở rộng đòi hỏi nông nghiệp Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh ngay lập tức, tuân thủ các tiêu chuẩn các nước đặt ra. Do đó, việc sản xuất theo chuỗi để đáp ứng các tiêu chuẩn là một đòi hỏi tất yếu” – ông Kiên nói.
Để phát triển các chuỗi giá trị nông sản, ông Kiên cho rằng, cần xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, cân đối cung cầu chung toàn ngành hàng trong quy mô cả nước để duy trì mức sản xuất có lợi về giá cả. Phối hợp với các doanh nghiệp lớn đủ khả năng dẫn dắt các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực quốc gia; rà soát lại toàn bộ các chiến lược quy hoạch, vùng quy hoạch, xây dựng, đề xuất đầu tư chuỗi giá trị đồng bộ và theo mô hình cụm ngành…
Các địa phương căn cứ lợi thế và nhu cầu thị trường, lựa chọn nhóm sản phẩm để quy hoạch vùng chuyên canh có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thuận lợi, cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ cần thiết, thuận tiện về giao thông để gắn kết với thị trường chính. Nhà nước cần làm cầu nối cho doanh nghiệp và tổ chức nông dân địa phương với thị trường hoặc các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ lớn thông qua việc cung cấp thông tin thị trường, môi giới thị trường, môi giới đầu tư.
Tăng cường kiểm soát quản lý vùng trồng, vùng nuôi và vùng khai thác, đẩy mạnh thực hiện đánh mã số vùng trồng. Xây dựng hệ thống giám sát đánh giá vùng nuôi trồng nhằm luôn đảm bảo các yêu cầu của thị trường.
Theo Danviet
Sơn La: Vào HTX trồng nhãn, không phải lo đầu ra lại bán giá cao
Với tổng diện tích trồng nhãn 6.730ha, chiếm gần 1 nửa toàn tỉnh, Sông Mã đang là "thủ phủ" nhãn của Sơn La. Những năm gần đây, nhờ tích cực sản xuất nhãn theo quy trình VietGAP, tham gia HTX, liên kết với doanh nghiệp mà sản phẩm nhãn Sông Mã được khắp nơi biết tới. Hiện, giá nhãn đầu vụ ở Sông Mã đang ở mức cao, đạt 40.000-50.000 đồng/kg.
Nhận thấy nhiều hộ gia đình trồng nhãn ở địa phương do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún nên thường gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra, thu nhập bấp bênh nên ông Trần Văn Lộc, bản Tân Lập (xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La) đã mạnh dạn tập hợp các hộ nông dân thành lập Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ Nông nghiệp Hưng Lộc, nhằm sản xuất nhãn theo chuỗi, liên kết với các doanh nghiệp, đảm bảo đầu ra ổn định.
Ông Trần Văn Lộc, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Hưng Lộc.
Dẫn chúng tôi đi thăm khu vườn nhãn xanh mướt, quả sai trĩu cành, ông Trần Văn Lộc, Giám đốc HTX cho biết: Thành lập năm 2017, đến nay HTX đã có 23 thành viên, chủ yếu là các hộ trồng nhãn, xoài trên địa bàn xã Chiềng Khương. Quá trình hoạt động, HTX luôn chú trọng áp dụng quy trình sản xuất quả an toàn và năm 2018, HTX đã được cấp Giấy chứng nhận VietGAP cho toàn bộ 41 ha nhãn, năng suất đạt trên 600 tấn.
Theo ông Lộc, ngay từ khi thành lập, HTX đã đề ra quy chế hoạt động, tổ chức kế hoạch sản xuất cụ thể đến từng thành viên; phối hợp với cách ngành chuyên môn của tỉnh, huyện tập huấn và phổ biến kỹ thuật thâm canh, chăm sóc, sử dụng thuốc BVTV, kỹ thuật thu hoạch đóng gói cho các thành viên theo đúng quy trình hướng dẫn, đáp ứng tiêu chuẩn VietGAP. Toàn bộ quá trình chăm sóc cây đều được các thành viên ghi chép đầy đủ trong sổ nhật ký.
Nhờ được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, vườn nhãn của các thành viên HTX Hưng Lộc luôn đạt năng xuất chất lượng cao.
Việc tuân thủ áp dụng quy trình kỹ thuật trong sản xuất đã giúp cho chất lượng quả ngày càng tăng lên. Trung bình 1kg nhãn hiện đạt từ 70 - 75 quả, các thành viên HTX đang cố gắng đạt trọng lượng bình quân 45 - 50 quả/kg nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Năm 2018, sản phẩm nhãn của HTX đã được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Vụ nhãn năm nay, đã có nhiều đối tác đặt hàng xuất khẩu nhãn sang thị trường Mỹ, Úc...
Các thành viên HTX Hưng Lộc đang thu mua nhãn để xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn Chi, thành viên của HTX vui vẻ cho biết: Từ ngày gia đình vào HTX, chúng tôi được HTX hỗ trợ từ khâu sản xuất, chăm sóc đến thu mua tiêu thụ sản phẩm, tới mùa thu hoạch nhãn bán không lo bị ép giá. Hơn 2 ha nhãn của gia đình năm nào cũng cho thu từ 200 - 300 triệu đồng.
Hiện giá nhãn đầu vụ dao động từ 40.000 - 50.000 đồng/kg.
Còn ông Trần Văn Phát cũng chia sẻ, với 4 ha nhãn ghép, trung bình mỗi năm gia đình ông thu hoạch khoảng 40 tấn nhãn tươi, thu nhập 400 - 500 triệu đồng/năm. Để có kết quả này, ông luôn tuân thủ quy trình sản xuất của HTX từ việc cắt ghép, chăm sóc đến thu hái tiêu thụ sản phẩm.
Từ năm 2017 đến nay sản phẩm nhãn của đình ông chủ yếu phục vụ xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc theo đường chính ngạch, đầu ra luôn ổn định.
Chất lượng nhãn của HTX Hưng Lộc luôn được người tiêu dùng ưa chuộng.
Bà Lê Thị Yến, Chủ tịch UBND huyện Sông Mã, cho biết: Sông Mã là một trong những huyện trọng điểm phát triển trồng nhãn của tỉnh Sơn La, với tổng diện tích khoảng 6.730 ha, sản lượng ước đạt khoảng 30.000 tấn.
So với năm 2018, năm nay diện tích nhãn đã tăng lên khoảng 250 ha, tuy nhiên sản lượng dự kiến sẽ giảm hơn so với năm ngoái khoảng 10.000 tấn do điều kiện thời tiết không thuận lợi vì nắng hạn kéo dài. Nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nhãn, hiện nay các nhà vườn, HTX trên địa bàn đang tập trung cao cho việc chăm sóc quả và thu hoạch.
Theo Danviet
Còn "tư duy thu gom", hợp tác xã khó... lớn Tại Diễn đàn Kết nối tiêu thụ sản phẩm nông sản HTX phía Bắc và tỉnh Đồng Tháp tại TP.Hồ Chí Minh ngày 19/7, nhiều đại biểu cho rằng, các HTX phải thay đổi tư duy để đáp ứng yêu cầu của thị trường, doanh nghiệp. "Đa phần các HTX hiện nay chỉ có tư duy thu gom nông sản của nông dân...