Không khuất phục, giữ chủ quyền!
Chúng ta nhất quyết không khuất phục trước cường quyền nào cả, đó là niềm tin để đấu tranh và đạt được thắng lợi – Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh.
Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân, nói việc Trung Quốc (TQ) đưa nhóm tàu khảo sát Địa Chất Hải Dương 8 vào vùng đặc quyền kinh tế của ta là hành động quậy phá nhằm thực hiện chiến lược “tằm ăn lá dâu”.
Mưu đồ chiếm bãi cạn của ta đã có từ lâu
Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh
Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh (ảnh) nhớ lại: Năm 1988, tình hình ở khu vực quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam (VN) hết sức căng thẳng.
Sau vụ đánh chiếm trái phép đá Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa, năm 1988), TQ liên tục cho tàu, thuyền dân sự (giả dạng) và cả tàu các lực lượng khác lấn xuống vùng biển phía nam, tìm cách xâm phạm vào vùng biển thuộc chủ quyền của VN. “Chúng ta đã biết âm mưu của TQ ở biển Đông từ lâu” – tướng Vĩnh nói. Từ nhận định này, theo tướng Vĩnh, chúng ta sau đó đã nhanh chóng có những hành động kịp thời, cấp bách để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Khi đó, với cương vị là phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, ông đã trực chỉ nơi đầu sóng ngọn gió để thực hiện nhiệm vụ vô cùng quan trọng. “Lúc đó, cấp trên giao cho Quân chủng Hải quân triển khai kế hoạch bảo vệ chủ quyền vùng biển và thềm lục địa phía nam bằng việc xây dựng các trạm dịch vụ kinh tế – khoa học – kỹ thuật mà sau này ta gọi là hệ thống nhà giàn DK1″ – tướng Vĩnh nói .
Theo tướng Vĩnh, hơn 30 năm trước TQ đã tung ra luận điệu rằng vùng biển có bãi Tư Chính là ngoại vi của quần đảo Trường Sa (của VN) và ngang ngược bảo rằng quần đảo này thuộc chủ quyền của họ. Trên thực tế, ngay từ khi đó TQ đã nhiều lần lén lút đưa tàu xuống khu vực bãi Tư Chính để gọi là khảo sát, thăm dò, tuy nhiên đã bị ta phát hiện, xử lý, ngăn chặn. “Phải khẳng định rõ ràng với TQ rằng đây là thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa vủa VN theo quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, không phải là vùng tranh chấp! Không thể như luận điệu của TQ được” – tướng Vĩnh khẳng định.
Thấy rõ âm mưu, nhanh chóng bảo vệ chủ quyền
Theo cựu tư lệnh Quân chủng Hải quân Mai Xuân Vĩnh, ngay sau sự kiện Gạc Ma, chúng ta đã có nhận định phía TQ sẽ lấn xuống, lấn sâu, chiếm đóng ở các vị trí bãi cạn nhằm tạo thế tranh chấp chủ quyền với ta, trước hết là tranh chấp về khai thác nguồn dầu khí, bởi trong giai đoạn 1986-1989 ta đã khai thác 2,5 triệu tấn dầu thô ở thềm lục địa phía nam. Và đúng là như thế.
Trước hành động TQ xâm chiếm đảo của ta và cho tàu, thuyền hoạt động liên tục, dịch chuyển dần về phía nam, Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân khẳng định phải cắm ngay hệ thống nhà giàn trên biển. Theo đó, đầu tháng 6-1989, ta tiến hành kéo nổi công trình nhà giàn DK1 đầu tiên đặt tại bãi Phúc Tần, gọi là nhà DK1/3.
Vùng biển thuộc khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn là của Việt Nam. Việt Nam đã rất sớm xác lập chủ quyền tại đây và có những hoạt động kinh tế phù hợp với luật pháp quốc tế. Ảnh: ĐẮC LAM
Ngày 10-6-1989, nhà giàn DK1/3 được chính thức đặt lên bãi Phúc Tần. Quá trình cố định nhà giàn khi đó hết sức vất vả. Khi đó ta đưa hệ thống ponton, nhà giàn phía trên vào vị trí trước, bên dưới neo giữ rồi mới tiến hành đổ bê tông chân đế cọc cố định. Tuy nhiên, khi chưa kịp đổ bê tông chân đế cọc cố định, gặp lúc sóng lớn, nhà bị lắc mạnh nên có nhiều khả năng mất an toàn. Trước tình hình đó, tướng Vĩnh và một số cán bộ tham mưu trực chỉ ra Phúc Tần để xử lý tình huống. Phương án đưa ra là đóng cọc cố định nên công trình đỡ rung lắc.
Video đang HOT
Tiếp đó, ngày 16-6-1989, nhà giàn DK1/4 cũng được đặt lên bãi Ba Kè. Ngày 3-7-1989, nhà giàn DK1/1 được đặt tại bãi Tư Chính. Rút kinh nghiệm trước đó, khi đặt nhà giàn DK1/1 ở bãi Tư Chính, chúng ta đã thiết kế theo cách đóng cọc nên cố định giàn tốt hơn.
Theo tướng Vĩnh, những nhà giàn ban đầu đã đóng vai trò rất lớn trong giai đoạn lịch sử, kịp thời bảo vệ chủ quyền biển và thềm lục địa phía nam của Tổ quốc.
Tung luận điệu hòa bình nhưng liên tục quấy phá
Trước những mưu đồ đã có từ lâu và những hành vi vi phạm chủ quyền ngang ngược của TQ ở bãi Tư Chính trong những ngày qua, Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh cho rằng chủ trương nhất quán của ta là đấu tranh bảo vệ chủ quyền kiên quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Từng giáp mặt đấu tranh với tàu TQ gây hấn những năm 1988, ông khẳng định trong bối cảnh hiện tại mình vẫn kiên trì dựa vào pháp lý, tin tưởng vào công lý, đường lối đấu tranh hòa bình và đấu tranh đến cùng sẽ giành thắng lợi. Ngược lại, TQ cũng không thể dùng sức mạnh để độc chiếm biển Đông.
Tuy nhiên, theo tướng Vĩnh, ngay chỗ này nếu ta không hiểu được âm mưu sâu xa và nhãn quan nhạy cảm qua từng giai đoạn lịch sử để có đối sách phù hợp thì rất khó đấu tranh khẳng định, giữ gìn chủ quyền trước một nước lớn như TQ. “Âm mưu sâu xa đó là gì, thưa trung tướng”.
“Đó là bài cũ luôn được TQ vận dụng với luận điệu hòa bình. Họ ru ngủ quốc tế bằng luận điệu an ninh khu vực này luôn yên tĩnh. Đó là trò bịp bợm của họ tung ra. Họ luôn thể hiện chiêu bài hòa bình, im lặng để làm, gặm được gì thì gặm” – tướng Vĩnh chỉ rõ.
Tướng Vĩnh tiếp: “Họ làm mê hoặc mọi người khi nói họ trỗi dậy vì hòa bình nhưng chính họ cho thấy rất hung hăng để thực hiện mưu đồ lợi ích của riêng mình. Không ai khác, họ là tác giả quậy lên sóng gió khu vực này và tạo ra các vụ đụng độ, tranh chấp. Chẳng hạn năm 1992, họ cũng quậy phá khi có công ty Mỹ đến thăm dò khu vực Tư Chính mà họ gọi là Vạn An… và từ đầu tháng 7 tới nay họ đưa nhóm tàu tới quấy rối các hoạt động kinh tế hợp pháp của VN ở khu vực này”.
Theo tướng Vĩnh, nhận thấy sự nguy hiểm từ hành động này của TQ, hiện một số nước lớn đã có tiếng nói phản đối TQ và họ sẽ không dễ đạt được tham vọng mà họ đã dày công gầy dựng.
“Trái với cách hành xử của TQ, ta kiên trì đấu tranh bằng nhiều con đường khác nhau trên trường quốc tế lẫn nội lực của mình. Chúng ta nhất quyết không khuất phục trước cường quyền nào cả, đó là niềm tin để đấu tranh và đạt được thắng lợi” – vị Phó Đô đốc hải quân cho hay.
Bãi Tư Chính là của Việt Nam, Trung Quốc phải rút đi!
Liên quan đến việc TQ đưa nhóm tàu khảo sát Địa Chất Hải Dương 8 xâm phạm chủ quyền của VN ở bãi Tư Chính đầu tháng 7-2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN Lê Thị Thu Hằng trong tuyên bố ra ngày 19-7 đã nêu rõ: “Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của TQ đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa VN ở khu vực phía nam biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của VN, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà VN và TQ đều là thành viên”.
Trong các phát ngôn tiếp sau đó, bà Lê Thị Thu Hằng tiếp tục khẳng định: “VN kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán, như đã khẳng định tại UNCLOS 1982, bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Với mục tiêu trên, VN đã có nhiều hình thức giao tiếp, ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía TQ, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của VN. Các lực lượng chức năng của VN triển khai những biện pháp phù hợp, đúng pháp luật”.
EU lên tiếng chỉ trích Trung Quốc quân sự hóa biển Đông
Việc “quân sự hóa” biển Đông đang đe dọa hòa bình trên tuyến đường biển này, bà Federica Mogherini, đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh, Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu, cho biết như thế hôm 5-8 tại Hà Nội, theo hãng tin AFP.
TQ bị cáo buộc triển khai tàu chiến, quân sự hóa các tiền đồn trên biển và đâm va vào các tàu đánh cá trên biển Đông. Bà Federica Mogherini cho hay khối này quan tâm đến “căng thẳng gia tăng” trong khu vực. “Chúng tôi tin rằng sự căng thẳng và hoạt động quân sự hóa này chắc chắn không có lợi cho một môi trường hòa bình” – bà Federica Mogherini nói.
Cũng trong ngày 5-8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam, TQ ngang nhiên thông báo tiến hành tập trận trong các ngày 6 và 7-8 gần khu vực quần đảo Hoàng Sa của VN.
Hành động phi pháp của TQ diễn tra trong lúc nhóm tác chiến tàu sân bay USS Ronald Reagan của Mỹ tiến vào vùng biển phía đông Philippines sau khi được điều động vào ngày 5-8.
VĨ CƯỜNG
PHONG ĐIỀN
Theo PLO
Chặn sự bành trướng của Trung Quốc, quyết bảo vệ chủ quyền
Yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực
Thực hiện chiến lược độc chiếm biển Đông, dùng biển Đông làm bàn đạp vươn lên vị trí siêu cường quốc tế trong cuộc cạnh tranh địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - chiến lược với Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc đã và đang lợi dụng mọi thời cơ, tận dụng mọi lợi thế về quân sự, kinh tế, kỹ thuật, tài chính... để bành trướng ở biển Đông.
Gặm nhấm biển Đông
Bằng vũ lực, Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1956, 1974 và một phần quần đảo Trường Sa năm 1988. Tiếp đến, từ sau năm 1988, Trung Quốc, một mặt tiến hành đào bới, san lấp, xây dựng, biến 6 thực thể địa lý ở phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ vừa đánh chiếm năm 1988 thành các đảo nhân tạo rất lớn đủ để xây dựng và bố trí các thiết bị quân sự hải, lục, không quân hiện đại. Mặt khác, họ tiếp tục triển khai chiến thuật gặm nhấm đối với các thực thể địa lý là những bãi ngầm, rạn san hô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hợp pháp của các quốc gia ven biển Đông để trước mắt muốn thực hiện thủ thuật "biến không thành có", "biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp", như những gì đã xảy ra ở Đá Vành Khăn năm 1995, bãi cạn Scarborough 2012, Bãi Cỏ Mây...
Đáng chú ý là Bắc Kinh đã và đang mở rộng hoạt động phi pháp này bằng cách huy động lực lượng tàu thuyền đến hoạt động tại khu vực bãi cạn James cách bờ biển Malaysia chỉ 80 km, Bãi Cỏ Rong ở phía Đông quần đảo Trường Sa, cách Philippines dưới 200 hải lý.
Gần đây nhất, theo thông tin chính thức của Việt Nam ngày 19-7, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về diễn biến ở khu vực biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tố cáo hoạt động của nhóm tàu Hải Dương 8 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam mà không được phép là phi pháp, vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo quy định của UNCLOS 1982 và Luật Biển Việt Nam 2012. Cụ thể là quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Tàu cảnh sát biển Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên biển Ảnh: CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM
Bình tĩnh và kiên quyết
Các quốc gia khác, có biển và không có biển, có 3 quyền khi đi vào vùng 200 hải lý thuộc EEZ (vùng đặc quyền kinh tế) và thềm lục địa của quốc gia ven biển, bao gồm: quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn dầu ở đáy biển của vùng thềm lục địa. Tuy nhiên, nếu các quốc gia thực hiện những quyền này mà ảnh hưởng đến các hoạt động thăm dò khai thác, kinh tế hoặc nghiên cứu khoa học của quốc gia ven biển thì phải được sự cho phép của quốc gia ven biển. Nếu không được phép là vi phạm EEZ và thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Hơn nữa, xin lưu ý rằng theo UNCLOS 1982, việc phát hiện và xử lý các sai phạm có khả năng xảy ra hay đã xảy ra trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các lực lượng chấp pháp trên biển của quốc gia ven biển cũng phải tuân thủ các thủ tục pháp lý chặt chẽ, không được phép xử lý một cách tùy tiện, đặc biệt là hạn chế hoặc thậm chí nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp bằng sức mạnh để cưỡng bức, không qua xét xử của các cơ quan tư pháp... Chẳng hạn, điều 73, UNCLOS 1982, quy định:
- Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng công ước.
- Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
- Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác.
- Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được tuyên bố sau đó.
Như vậy, có thể thấy rằng khi áp dụng các biện pháp đấu tranh tại hiện trường xảy ra vụ việc để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên biển, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam phải thận trọng và phải cân nhắc kỹ trước khi áp dụng một biện pháp nào đó, chứ không thể xử lý theo cảm xúc, chủ quan, chưa kể nếu không cẩn thận, có thể bị mắc bẫy của đối phương khi họ kiếm cớ để gây khủng hoảng dẫn tới đụng độ, nhằm nhanh chóng rút ngắn thời gian thực hiện mục tiêu chiến lược của họ.
Trung Quốc xem bãi Tư Chính là một phần của quần đảo Nam Sa thuộc "chủ quyền bất khả xâm phạm" của Trung Quốc. Nhưng lập luận ngụy biện này hoàn toàn trái ngược với những quy định của UNCLOS 1982, đặc biệt là đã bị phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế La Haye năm 2016 bác bỏ.
-------------------------------------
Đấu tranh ngoại giao, pháp lý cao hơn
Dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao nội dung có liên quan đến biện pháp đấu tranh ngoại giao và phương thức ứng xử trên thực tế của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam khi phát hiện những hoạt động phi pháp của nhóm tàu Hải Dương 8.
Về đấu tranh ngoại giao, Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Căn cứ vào tính chất, mức độ và phạm vi xảy ra vi phạm và xuất phát từ thiện chí, tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng khu vực và quốc tế, cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam đã cân nhắc một cách thận trọng trước khi áp dụng những hình thức đấu tranh chính trị, pháp lý thích hợp, khá mạnh mẽ và đúng thủ tục pháp lý hiện hành. Thực hiện chủ trương giải quyết hòa bình mọi tranh chấp trên biển, tôi tin rằng Việt Nam sẽ còn áp dụng hình thức và mức độ đấu tranh ngoại giao, pháp lý cao hơn, không loại trừ khả năng đưa vụ việc này lên các tổ chức quốc tế và các cơ quan tài phán quốc tế xem xét giải quyết. Nội dung các văn kiện ngoại giao, theo tôi, cũng đã phản ánh đầy đủ lập trường nói trên của Việt Nam. Tuy nhiên, có thể vì lý do nào đó, chúng không nhất thiết phải được công bố công khai. Đó là một thực tế thông thường trong cách ứng xử giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Dù công bố hay không, giá trị pháp lý vẫn không thay đổi.
Về những động thái ứng xử của các lực lượng chấp pháp tại hiện trường, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã cho biết: "Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam".
Tiến sĩ Trần Công Trục
Theo PV (Người lao động)
Trung Quốc cố ý gây sự và bất chấp luật pháp quốc tế trên Biển Đông Từ đầu tháng 7 đến nay, Trung Quốc lại gây chuyện ở khu vực Biển Đông khiến Việt Nam và thế giới phải lên tiếng thể hiện thái độ phản đối mạnh mẽ và kiên quyết đòi phía Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động đó. Bởi chúng không chỉ vi phạm trắng trợn và nghiêm trọng luật pháp quốc tế mà...