“Không hẳn chỉ nam giới, giàu có mới mua dâm”
“Cần nhìn thẳng, thực tế, hiện tượng mại dâm liên quan đến nhu cầu có thực của con người. Xử phạt nặng người mua dâm có cái lý nhưng cũng cần xem xét thêm trên các yếu tố như về mức chênh lớn đặt ra trong dự thảo nghị định”…
Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội Đỗ Mạnh Hùng trao đổi bên hành lang Quốc hội.
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đìnhdo Bộ Công an xây dựng, được đưa ra lấy ý kiến gần đây có nhiều nội dung đang gây tranh luận nhưng việc nâng mức phạt tiền với người mua dâm lên tối đa 10 triệu đồng so với mức phạt tiền cao nhất 1 triệu đồng dành cho người bán dâm. Có thể lập luận, lý giải thế nào về việc này?
Quan điểm nâng mức phạt đối với người mua dâm, trong nhiều trường hợp cao gấp 10 lần so với người bán dâm tôi thấy cũng có nhiều người ủng hộ, vì nhiều lý do.
Trước hết, những người mua dâm người ít ra phải có tiền, thậm chí nhiều người giàu có. Đặc điểm này khác với người bán dâm, nhiều người buộc phải làm “nghề” này do hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, éo le. Họ vẫn thường được xếp vào nhóm yếu thế trong xã hội. Vậy nên xu hướng xử phạt nặng người mua dâm so với người bán dâm dễ khả thi.
Thứ 2, trên thực tế, người mua dâm chủ yếu là nam giới (tất nhiên hiện nay đã xuất hiện những hiện tượng người mua dâm là nữ, nhưng về cơ bản vẫn là nam giới). Quan niệm xã hội cũng thường cho rằng phụ nữ là những người nhạy cảm hơn, yếu thế hơn nên việc xử nhẹ hơn người bán dâm so với mua dâm nhận được ý kiến ủng hộ.
Tuy nhiên cũng có quan điểm phản đối vì cho rằng, xét trong một quan hệ mua bán, đáng ra người bán phải chịu trách nhiệm lớn hơn, trực tiếp hơn người mua. Sau nữa, nhiều người lập luận ngược lại, trên quan điểm bình đẳng giới thì nam cũng như nữ, không đặt vấn đề số người mua dâm đa số là nam hay số người bán dâm nữ là chủ yếu. Đã là vi phạm thì đều bình đẳng trước pháp luật.
Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội Đỗ Mạnh Hùng: “Cần nhìn thẳng thực tế, mại dâm liên quan đến nhu cầu có thật của con người, không kể giàu nghèo”.
Còn quan điểm của cá nhân ông với tư cách Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội, được giao theo dõi mảng nội dung phòng chống tệ nạn xã hội?
Với góc độ là một người được phân công theo dõi lĩnh vực này, tôi cho rằng quan điểm xử phạt nặng người mua dâm có cái lý của nó. Tuy nhiên cũng cần xem xét thêm trên các yếu tố như mức chênh nhau là bao nhiêu. Cần nhìn thẳng, thực tế, việc này liên quan đến nhu cầu có thực của con người mà không loại trừ những người nghèo trong số đó.
Video đang HOT
Hiện cả nước có hàng chục vạn thanh niên trong độ tuổi “bức xúc” đang làm việc trong các khu công nghiệp, khu lao động tập trung, xa nhà hàng trăm cây số. Họ không phải là người giàu có gì và có thể cũng phải đi mua dâm vì nhu cầu là thực tế. Cần tính đến yếu tố đó để xét lại mức phạt chênh lệch lớn như nghị định đưa ra.
Chính từ góc độ nhìn nhận vấn đề như vậy mà nhiều người cho rằng quan điểm tăng mức phạt để chặn mại dâm mà cơ quan soạn thảo Nghị định đưa ra chưa ổn trong khi xu hướng hiện nay, xã hội đang đặt vấn đề hợp pháp hóa mại dâm để quản lý và hạn chế những tác hại không mong muốn?
Việc này chắc cũng còn phải nghiên cứu thêm mới có thể quyết định được. Còn hiện tại, các nội dung, vấn đề liên quan đều do luật điều chỉnh. Theo tôi, hiện quan điểm tranh luận có những hướng khác nhau, đối lập nhưng cũng có những điểm chung. Xu hướng đề xuất hợp pháp hóa mại dâm hay là xu hướng chống, coi đó là tệ nạn xã hội cần đấu tranh dẹp bỏ thì vẫn có những điểm chung mà chính sách cần phải hướng vào đó để cụ thể hóa.
Thứ nhất, về yêu cầu bảo vệ sức khỏe của cộng đồng thì cả trường phái phản đối và đề xuất hợp pháp hóa đều công nhận. Thứ 2, phải bảo vệ được những giá trị truyền thống của xã hội, của dân tộc. Có thể cân nhắc duy trì mại dâm ở mức độ nào đó nhưng không thể để nó trở thành một xu hướng quá phổ biến, bị biến tướng đi, ảnh hưởng đến những thuần phong mĩ tục, đến những giá trị truyền thống của dân tộc.
Điểm chung thứ 3 là cần chống hành vi bóc lột, bảo kê, chăn dắt trong hoạt động mại dâm cũng như nạn ăn chặn.
Giờ khi chúng ta cũng chưa thể khẳng định được việc có hợp pháp hóa hay không thì vấn đề xây dựng chính sách vẫn phải hướng đến những điểm chung này để điều chỉnh.
Có ý kiến cũng nghi ngờ tác dụng ngăn chặn hành vi của mức phạt cao hơn vì khi có nhu cầu thì có phạt cao hơn người ta vẫn làm. Mặt khác, càng cao càng dễ có xu hướng diễn biến phức tạp như làm tăng hoạt động bảo kê, hối lộ, mua chuộc khi bị phát hiện, xử phạt?
Khi xây dựng một luật hay nghị định đều phải có khâu đánh giá tác động cụ thể. Trong trường hợp nghị định này, tôi chưa có dịp được tiếp cận đầy đủ với hồ sơ bên Chính phủ chuẩn bị (cụ thể là báo cáo đánh giá tác động) nhưng tôi thấy xu hướng tăng mức phạt đối với người mua dâm ở góc độ chung, sẽ góp phần phòng chống mại dâm. Còn trong những trường hợp cụ thể nó có thể bị biến tướng, bị lợi dụng thì đó là thuộc trách nhiệm của nhà nước trong thanh tra kiểm tra, trong xử lý để hạn chế những biểu hiện đó.
Hướng suy nghĩ khác, tôi cũng thấy cần xem lại dự thảo nghị định này một cách tổng thể hơn, làm sao cho hợp lý. Ví dụ, trong dự thảo, có nội dung quy định xử lý hành vi thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động mại dâm ở cơ sở kinh doanh do mình quản lý với mức phạt rất nặng (đến 30 triệu đồng) nhưng xử lý hành vi chủ động lợi dụng mại dâm và các hoạt động tình dục khác để đưa vào như một phương thức kinh doanh lại xử lý nhẹ hơn. Một đằng thiếu trách nhiệm lại xử nặng hơn dạng lỗi có ý thức, chủ động tổ chức thì rõ ràng không hợp lý.
Như vậy đi vào chi tiết, chắc nghị định cũng còn phải tiếp tục lấy ý kiến để có những sửa đổi phù hợp hơn, cho đúng với tinh thần luật xử lý vi phạm hành chính đã được ban hành.
Theo quy trình, dự thảo nghị định này có cần ý kiến của UB Các vấn đề xã hội như một yêu cầu . Nếu có, nghị định có khả năng “qua cửa”… một cách xuôi chèo mát mái?
Thường khi xây dựng một dự thảo luật thì đã phải kèm theo các nghị định. Tuy nhiên, luật xử lý vi phạm hành chính lại chưa có đầy đủ các nghị định hướng dẫn mà giờ mới tiếp tục bổ sung. Theo quy trình, đến giai đoạn này thì các cơ quan của Quốc hội không có trách nhiệm thẩm tra nghị định nữa mà trong trường hợp cụ thể thì chỉ phối hợp cho ý kiến thôi.
Vậy nên, về mặt chính thức, tôi chưa nhận được các văn bản, hồ sơ liên quan dự thảo nhưng với góc độ cơ quan có trách nhiệm của Quốc hội, chúng tôi sẽ có ý kiến đối với cơ quan soạn thảo để đóng góp vào việc xây dựng các nghị định này cho thực tế, khả thi hơn.
Xin cảm ơn ông!
Theo Dantri
Kế hoạch tăng lương bị "uy hiếp" vì hụt chỉ tiêu tăng trưởng
Do tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt chỉ tiêu, việc điều chỉnh lương thấp hơn dự kiến. Lương tối thiểu chỉ đáp ứng gần 40% nhu cầu sống tối thiểu. Trong khi số doanh nghiệp phá sản, giải thể không ngừng tăng, mức chi trả bảo hiểm thất nghiệp tăng vọt...
Đây là những vấn đề mà Ủy ban Các vấn đề xã hội cảnh báo trong báo cáo vừa gửi đến các đại biểu Quốc hội. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 976 năm 2010 của Ủy ban Thường vụ về việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Ngoài ra, kết quả thực hiện lời hứa sau phiên chất vấn về lương thưởng, tạo việc làm, giải quyết bảo hiểm thất nghiệp của Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền tại kỳ họp trước cũng được đề cập cụ thể trong báo cáo.
Cụ thể, Ủy ban Các vấn đề xã hội cho rằng, lao động - việc làm là một vấn đề xã hội cần quan tâm trong năm 2012, 2013 khi chỉ tiêu tạo việc làm năm vừa qua đã không đạt kế hoạch Quốc hội giao (kế hoạch giao là 1,6 triệu lao động, kết quả thực hiện chỉ đạt 1,52 triệu). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động tại thành thị là 3,25% và còn tăng trong quý I/2013.
Lương tối thiểu chỉ tăng một nửa so với mức dự kiến trong năm 2012 vì kinh tế khó khăn.
Điểm đáng chú ý, tỷ lệ lao động phi chính thức năm 2012 tăng so với một số năm trước (từ 34,6% năm 2010 tăng lên 35,8% năm 2011 và 36,6% năm 2012). Cơ quan giám sát về lĩnh vực này nhận định, sự chuyển dịch người lao động bị thất nghiệp sang khu vực phi chính thức cho thấy, tác động của khoảng 54,2 nghìn doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động trong năm 2012 đến vấn đề việc làm trong khu vực chính thức.
Lãnh đạo Ủy ban Các vấn đề xã hội cũng "điểm tên" nguyên nhân, năm 2012, do tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt hơn 5%, trong khi mức dự kiến tăng trưởng từ 6-6,5% dẫn đến việc điều chỉnh tăng lương tối thiểu cho khu vực công chỉ ở mức 1,15 triệu đồng/tháng (dự kiến là 1,3 triệu đồng/tháng). Mức lương này chỉ đạt 38,4% so với nhu cầu sống tối thiểu của người lao động.
Mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã năm 2013 chỉ điều chỉnh tăng thêm bình quân 17,4%, thấp hơn so với mức dự kiến điều chỉnh là 36,4%.
Quý I năm nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã nhích lên nhưng 4 tháng đầu năm lại có đến 19.600 doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc giải thể, tiếp tục tác động đến tình hình việc làm trong khu vực chính thức.
Nhiều con số khác Ủy ban Các vấn đề xã hội đưa ra cũng đáng "giật mình". Theo đó, số lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 7,9 triệu người năm 2011 lên 8,3 triệu người năm 2012 (tăng 4,2% sau 1 năm). Số người được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp trong 3 năm 2010 - 2012 tăng từ 145.000 lên 410.000, rồi tới 461.000 cuối năm qua.
Cơ quan giám sát đánh giá, tuy số người hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp chỉ tăng khoảng 50.000 người so với năm 2011 nhưng số tiền chi bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng tăng tới 133% (từ 1.126 tỷ đồng lên mức 2.625 tỷ đồng trong cả năm 2012).
Trong khi đó, 3 năm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, tỷ lệ người thất nghiệp được đào tạo nghề chỉ đạt 1% (0,5% số người thất nghiệp được đào tạo nghề trong năm 2012). Ủy ban Các vấn đề xã hội cũng cảnh báo, ở một số địa phương đã có tình trạng lợi dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Số nợ bảo hiểm này đến hết năm 2012 là 4.639 tỷ đồng.
Về kết quả thực hiện lời hứa của Bộ trưởng LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền sau phiên chất vấn tại phiên họp thứ 10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (tháng 9/2012), UB Các vấn đề xã hội khái quát, các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách cơ bản đã được ban hành. Bộ cũng ban hành được Bộ quy tắc ứng xử dành cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam.
Với nỗ lực của ngành, Việt Nam duy trì và mở rộng thêm được một số thị trường có chất lượng như Nhật Bản và Đức.
Tuy nhiên, cơ quan giám sát nhắc về vấn đề đưa lao động Việt đi làm việc tại thị trường Hàn Quốc, Đài Loan khó khăn. Việc dừng chương trình cấp phép mới cho lao động Việt Nam đi Hàn quốc làm cho hơn 12.000 lao động đã hoàn thành xong các chứng chỉ nghề, ngoại ngữ chưa có cơ hội xuất ngoại.
Việc đổi mới nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước cũng nhận "điểm trừ" vì chậm.
Ủy ban Các vấn đề xã hội yêu cầu Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền có giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước; hoàn thiện mô hình quản lý lao động Việt Nam tại nước ngoài; đề xuất Chính phủ giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài và có giải pháp tích cực nhằm mở lại thị trường lao động Hàn Quốc.
Theo Dantri
Cần xem xét công nhận hôn nhân đồng giới Ông Nguyễn Văn Tiên - Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội đã chia sẻ với PV cách nhìn nhận nhân văn về hôn nhân cùng giới. Pin Okio và Nel Fi (TPHCM) đã quyết định kết hôn sau 4 năm yêu nhau - Theo tôi, với những người đồng tính, bản thân cấu trúc sinh học...