Không để sư tử đá đồng hóa các di tích đình, chùa
Theo yêu cầu của Bộ VH-TT&DL, thời hạn để di dời sư tử đá có nguồn gốc ngoại lai ra khỏi các di tích tín ngưỡng là tháng 12. Tuy nhiên cho đến thời điểm này, tại nhiều di tích sư tử đá vẫn nguyên vẹn, nhe nanh vuốt trấn ở cổng đình, chùa…
Vẫn còn rất nhiều đình chùa có sư tử đá ngoại lai nhưng chưa chịu di dời
Thẩm thấu từ chuyện… rỉ tai
Cuộc hội thảo “Mỹ thuật ứng dụng hiện nay và vấn đề biểu tượng trang trí” do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức vừa diễn ra tại Hà Nội đã thu hút sự quan tâm và dõi theo của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa. Các ý kiến tham luận đều chỉ ra nguyên nhân cốt lõi của việc sư tử đá ngoại lai tràn ngập tại các đình, chùa, công sở là do sự thẩm thấu văn hóa dân gian, cho rằng nếu sở hữu con vật này thì phát tài, con vật kia thì phát lộc.
Vẫn biết rằng, thuộc tính của văn hóa là sự giao thoa và tiếp biến. Nhưng nếu soi lại trong lịch sử từ xưa đến nay thì cuộc “đổ bộ” của sư tử đá Trung Quốc tại những nơi trang nghiêm, tôn kính được liệt vào hàng đáng sợ và khủng khiếp nhất. Bởi không hề có sự tiếp biến và Việt hóa nào, các con sư tử đá được sao chép y nguyên, giống đến từng cọng râu, ánh mắt. Những con sư tử đứng trước cửa đình chùa như những ác thú, dữ tợn, hăm dọa và đe nẹt người đến thắp hương, lễ Phật.
Cảnh báo không thể bỏ qua
“Sư tử đá thực chất là linh vật mà người Trung Quốc dùng để canh mộ người chết nhưng lại được người Việt Nam bày ở trước các chùa tháp, công sở, thậm chí nhà riêng. Như vậy vô hình trung đã biến những nơi này thành nhà mồ của người chết” – thông tin do PGS.TS Tống Trung Tín, Viện Khảo cổ học Việt Nam cung cấp đã làm giật mình không ít người, đặc biệt là những người có tư tưởng cầu danh. Sư tử đá canh lăng mộ của người Trung Quốc cách đây trên 2.000 năm giờ lại nghễu nghện và đầy oai phong ở mọi nơi và mặc nhiên được coi là linh vật của người Việt Nam, biến đình, chùa, công sở, nhà riêng thành ngôi nhà của người chết. Đến mức, nhà sử học Dương Trung Quốc cũng phải thốt lên: “Tôi ra đến Trường Sa, chùa còn chưa xây xong nhưng đã thấy ở đâu 2 con sư tử đá từ trong đất liền gửi ra. Ngày trước, những nơi nào có sư tử đá, người Việt đều hiểu rằng ở đó là hội quán của Tàu hoặc chùa Tàu. Sao giờ sư tử đá lại biến thành của người Việt Nam?”. Đau đớn hơn, việc đó đang là sự thật và đang sinh sôi phát triển ở Việt Nam như một hành động tự mình “đồng hóa” mình, tự mình “xâm lăng” mình.
PGS. TS Tống Trung Tín chua xót: “Các bạn tôi, người Nhật Bản, mỗi khi sang Việt Nam, đi qua các di tích, nhìn thấy các sư tử đá Trung Quốc trước cửa đều hỏi tôi rằng: Đây có phải di tích của Trung Quốc không? Bản thân tôi, khi được hỏi thì vô cùng xấu hổ. Đó là hậu quả tai hại nhãn tiền của buông lỏng quản lý bấy lâu”.
Sáng tạo biểu trưng Việt Nam mới
Video đang HOT
Trước những cảnh báo của các nhà khoa học, vừa qua, Bộ VH-TT&DL đã có một cuộc tổng kiểm tra và đưa các linh vật ngoại lai ra khỏi đình, chùa, nhưng cuộc di chuyển này đã vấp phải vô vàn những lúng túng. Các đình, chùa, công sở không biết phải xử lý như thế nào với sư tử đá. Thậm chí, có ý kiến còn cho rằng, nên đập bỏ tất cả các linh vật ngoại lai, trong khi nhiều ý kiến khác cho rằng, nên đưa vào tái chế. Vậy là, ngay cả việc tưởng như đơn giản là bỏ đi một linh vật không phù hợp với văn hóa Việt, chúng ta cũng phải đối mặt với tình trạng vừa hoang mang, vừa lúng túng. Theo GS.TS Vũ Minh Giang: “Văn hóa Việt vốn có tư tưởng cởi mở, tiếp thu văn hóa. Không nên nhìn nhận biểu tượng văn hóa theo dạng thô thiển, sao chép y nguyên. Bằng cái nhìn biện chứng, người Việt Nam không dừng lại ở vốn di sản cha ông mà còn phát triển, làm phong phú thêm kho tàng văn hóa trong tương lai, hình thành thêm các biểu tượng mới”.
Đồng tình với quan điểm trên, PGS.TS Tống Trung Tín bổ sung: “Nếu chúng ta không nghiên cứu, không tuyên truyền tốt thì dù có đưa ra rất nhiều linh vật của Việt Nam như triển lãm linh vật Việt Nam vừa qua cũng chưa chắc đã mang lại hiệu quả cao. Nghĩa là chúng ta cần có nhiều biện pháp song hành: sáng tạo ra những hình ảnh đẹp của các biểu trưng Việt Nam tốt đẹp đi đôi với việc tuyên truyền cái hay, cái lợi của biểu trưng Việt Nam. Và như thế chúng ta mới có thể nối tiếp tiền nhân để 4.000 năm ta vẫn là ta đúng với bản sắc văn hóa vốn có của Việt Nam. Đó là một nhiệm vụ vô cùng cấp bách và có ý nghĩa cao cả của mỹ thuật Việt Nam và khoa học Việt Nam ngày nay”.
Theo_An ninh thủ đô
Con đường tơ lụa trên biển: Bóc mẽ mưu đồ Trung Quốc
Đăng ký con đường tơ lụa trên biển: TQ đang dùng khoa học vào mục đích chính trị phi lý.
Đó là quan điểm của PGS.TS Tống Trung Tín - Chủ tịch Hội khảo cổ học VN trước việc Trung Quốc đang lập một cơ sở khảo cổ dưới nước cấp quốc gia và bổ sung hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận khái niệm "con đường tơ lụa trên biển".
Mưu đồ rất bài bản của TQ
Chia sẻ thông tin với PV, ngày 22/7, PGS.TS Tống Trung Tín cho hay: "Việc thành lập cơ sở nghiên cứu khảo cổ dưới biển là quyền của mỗi nước, nước nào có biển, có sông, có hồ, có tất cả những tiềm năng khảo cổ học dưới biển thì đều có quyền lập cơ sở nghiên cứu đó".
Theo ông Tín thì sự việc chỉ có vấn đề khi việc nghiên cứu được tiến hành ở đâu, nhằm mục đích gì? Ví dụ,thứ nhất, nếu TQ nghiên cứu trong vùng lãnh hải, lãnh thổ của TQ được pháp luật quốc tế thừa nhận thì đó là quyền của TQ. Tuy nhiên, khi TQ lập ra để nghiên cứu trong vùng lãnh hải của nước khác đó là điều cực kỳ phi lý, không thể chấp nhận được.
Thứ nữa, nếu cơ sở nghiên cứu đó tiến hành nghiên cứu ở khu vực đang có tranh chấp thì càng không thể vì việc tranh chấp mang tính quốc tế về lãnh thổ, lãnh hải như vậy phải chờ sự phân giải của các cơ quan trọng tài quốc tế, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Chuyện lập một cơ sở nghiên cứu khảo cổ học dưới nước theo tôi nó phải rạch ròi như vậy.
Theo ông Tín, rõ ràng việc TQ định thăm dò, tiến hành nghiên cứu khảo cổ học dưới nước trong các khu vực tranh chấp và khu vực lãnh hải của nước khác là không thể chấp nhận được, là vi phạm luật pháp quốc tế. Hiển nhiên khi tiến hành những vấn đề này, nó đều nằm trong kế hoạch bài bản nhằm độc chiếm Biển Đông để "bá quyền" khu vực Đông Nam Á và rộng hơn nữa.
Về việc TQ còn định lập một hồ sơ gửi UNESCO công nhận di sản TG đối với "con đường tơ lụa" trên biển, ông Tín bày tỏ: "Không cần lý luận dài dòng thì ai cũng thấy nó quá buồn cười, quá phi lý".
Ông Tín nhìn nhận: "Một con đường giao thương quốc tế có quy mô lớn rộng bao trùm nhiều nước mà làm như vậy thì có khác nào muốn cả TG là của mình. Rồi còn cái luận thuyết, ở đâu có tàu thuyền của mình đi qua, có đồ gốm của mình ở đó thì đấy là đất của mình, biển của mình thì tôi đã thấy nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nói rồi.
PGS.TS Tống Trung Tín - Chủ tịch Hội khảo cổ học VN
Đó chỉ là vấn đề giao thương kinh tế, hay giao lưu văn hóa. Các chứng tích như vậy sẽ diễn ra ở bất kỳ nước nào và bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nếu cứ theo luận thuyết này của TQ, thì theo ông Tín nước nào cũng có thể làm được như thế.
Không riêng gì TQ, VN cũng làm được, bởi trên con đường giao thương quốc tế trên đường biển này VN cũng đã tiến hành giao thương với TQ, các nước Đông Nam Á từ trước công nguyên, từ thời dựng nước và giữ nước đầu tiên của người Việt. Ví dụ, qua con đường biển này, trống đồng của văn hóa Đông Sơn đã lan tỏa xuống Indonesia... Hoặc, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, 18 gốm Việt Nam qua con đường biển đã có mặt ở Đông Nam Á, Nhật Bản, Trung Á v.v...
Một con tàu đắm khổng lồ đã chở đầy gốm Thăng Long và gốm Hải Dương đã bị đắm ở ngoài khơi Cù Lao Chàm có niên đại thế kỷ thứ 15. Nói như vậy để thấy luận thuyết hết sức phi lý nhưng mặt khác cũng hết sức tinh vi, thâm hiểm của tư tưởng độc chiếm biển Đông của TQ.
Ông Tín cũng chỉ rõ: "Tất cả các công việc này nhằm để phục vụ cho việc khẳng định 80% diện tích Biển Đông là thuộc lãnh thổ TQ, một cách thức để hợp pháp hóa đường lưỡi bò trên biển của TQ. Bởi khi đã công nhận con đường tơ lụa trên biển thì việc TQ sở hữu đường lưỡi bò gần như là lẽ đương nhiên. Đó quả là một biện pháp tổng hợp hết sức nguy hiểm buộc chúng ta phải hết sức cảnh giác.
Con đường tơ lụa là của nhân loại
Phân tích rõ hơn về con đường tơ lụa, ông Tín lý giải: Con đường tơ lụa bắt đầu hình thành từ thế kỷ thứ II trước Công Nguyên để liên minh Trung Quốc với những quốc gia ở phía Tây, trên con đường đó giao lưu kinh tế và văn hóa hết sức phát triển, với nhiều mặt hàng trong đó có tơ lụa và nhờ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Đông - Tây.
Từ Trung Quốc qua Mông Cổ, Ấn Độ, Kazkhstan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã. Tất nhiên đó là giao thương và giao lưu hai chiều. Do mặt hàng tơ lụa TQ rất nổi tiếng và cũng được các nước phương Tây rất ưa thích, cho nên người ta mệnh danh nó là con đường tơ lụa, đúng hơn là con đường tơ lụa trên bộ. Đó là một thành tựu lớn của nhân loại.
Cũng tương tự, ở trên biển cũng từ trước Công Nguyên giao thương Đông - Tây cũng được hình thành với nhiều mặt hàng phong phú. Nhưng mà sản phẩm gốm sứ do sức bền của nó được tìm thấy và phản ánh con đường tơ lụa trên biển rất rõ.
Trên con đường tơ lụa trên biển, Việt Nam nằm ở vị trí chung chuyển do đó tính chất giao thương và giao lưu giữa Việt Nam với quốc tế cũng rất mạnh mẽ. Do vậy, có thể nói tính quốc tế của con đường tơ lụa là cực kỳ lớn.
Cảnh giác với động thái lập hồ sơ di sản xin công nhận con đường tơ lụa
Ông Tín cho rằng: con đường tơ lụa trên biển có quy mô hết sức lớn rộng bao trùm nhiều quốc gia. Do vậy, lập hồ sơ công nhận di sản con đường tơ lụa cho bất kỳ nước nào là một điều cực kỳ phi lý.
Hoặc giả nếu cần thiết phải lập hồ sơ để bảo vệ và tôn vinh con đường di sản đó thì nó phải là di sản chung của tất cả các nước mà nó đi qua và với điều kiện tất cả các nước đó cùng đồng ý trên cơ sở luật pháp và công ước di sản của Unessco.
Giả dụ con đường đó đi qua lãnh hải VN thì con đường đó phải là con đường của VN, nếu VN đồng ý. Còn nếu VN không đồng ý thì không thể lập được hồ sơ cho con đường đó. Thực chất, việc xây dựng hồ sơ chỉ là một trong những toan tính độc chiếm biển Đông của TQ mà thôi.
Chính vì vậy, trước động thái trên của TQ, ông Tín cho rằng, các cơ quan có thẩm quyền, các nhà khoa học rất cần có trách nhiệm tuyên truyền mạnh mẽ cho người dân trong nước và TG thấy rõ ý đồ nguy hiểm nhưng hết sức tinh vi đó.
Nếu ta im lặng không nói gì để họ muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói thì dần dần sẽ đưa công luận quốc tế và trong nước đi tới ngộ nhận rằng con đường di sản đó là của TQ đã từ rất lâu rồi, và do vậy con đường lưỡi bò mà TQ đưa ra là hợp thức.
Do vậy, cần hết sức cảnh giác trước mọi việc làm của TQ để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.
Theo Báo Đất Việt