“Không chứng minh được có tội đúng trình tự phải coi là vô tội”
Đó là ý kiến góp ý của một số luật sư gửi đến Báo điện tử mong muốn tham gia ý kiến cùng Quốc hội trước khi ban hành Bộ luật tố tụng Hình sự (sửa đổi).
Hiện nay, Quốc hội khóa XIII đang từng bước thảo luận để ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi). Câu chuyện giảm oan sai trở nên bức thiết hơn bao giờ hết trước những vụ án oan liên tiếp xảy ra trong thời gian vừa qua.
Tại Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự đã có nhiều điểm tiến bộ nhằm cụ thể hóa nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền im lặng. Tuy nhiên, ngay tại nghị trường Quốc hội cũng còn có những ý kiến khác nhau về nội dung của dự thảo. Để góp thêm tiếng nói cùng Quốc hội bàn về nguyên tắc suy đoán vô tội, một số luật sư có ý kiến góp ý gửi báo điện tử Infonet.
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được nhiều Nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, được đánh giá là thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người.
Nguyên tắc này đã được công nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của Liên hiệp quốc. Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982.
Chính vì tầm quan trọng như vậy nên trong những năm qua, nguyên tắc suy đoán vô tội luôn được sự quan tâm, không chỉ được đề cập rất nhiều trong những hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn..
Hiến pháp 2013 của Việt Nam có nhiều điểm mới, trong đó quy định cụ thể hơn về các quyền con người và nguyên tắc suy đoán vô tội (Khoản 1, Điều 31). Tiếp theo Hiến pháp, đòi hỏi các văn bản luật và các văn bản dưới luật phải cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp để ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền cơ bản của công nhân và nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự.
Vậy nguyên tắc suy đoán vô tội là gì ? Điều 11, Tuyên ngôn về quyền con người tuyên bố: “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình”.
Khoản 2, điều 14 của ICCPR cũng ghi nhận “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo quy định của pháp luật”.
Về tổng quát, quyền được suy đoán vô tội phải đồng thời đảm bảo cả 3 nội dung:
Thứ nhất, Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tòa án.
Thứ 2, Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh nhưng có quyền đưa ra các chứng cứ và các yêu cầu chứng minh họ không phạm tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Thứ 3, Mọi nghi ngờ về tội phạm của người bị tình nghi phạm tội nếu không được loại trừ theo trình tự thủ tục pháp luật quy định thì phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình nghi. Quay trở lại với dự thảo Luật TTHS, Điều 10 đã kế thừa tinh thần của các điều 9, điều 10 BLTTHS 2003 và bổ sung thêm nguyên tắc mới: Điều 10. Suy đoán vô tội (sửa đổi, bổ sung)
Video đang HOT
1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Mọi hoài nghi về tội của người bị buộc tội nếu không thể làm sáng tỏ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải xử lý theo hướng có lợi cho họ.
Như vậy, nguyên tắc này đã thể hiện đầy đủ tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội. Đây là một bước đi đúng đắn, cấp tiến và phù hợp với xu thế chung của nhân loại. Việc bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội có ý nghĩa rất lớn trong công cuộc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền con người trong TTHS nói riêng. Cụ thể:
Thứ nhất, Nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần đáp ứng được yêu cầu chứng minh trong vụ án hình sự, tránh việc bức cung, nhục hình. Hiện nay, mô hình tố tụng của chúng ta vẫn mang nhiều đặc trưng của mô hình tố tụng thẩm vấn (tố tụng xét hỏi). Đặc điểm của mô hình này được tiến hành chủ yếu dưới các hình thức viết, bí mật và không trực diện; nguyên tắc việc thừa nhận lỗi của bị can bị cáo là chứng cứ quyết định và suy đoán có tội đối với người bị tình nghi. Sẽ thật không công bằng khi cơ quan có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án, lại đồng thời có trách nhiệm chứng minh có tội đối với người bị tình nghi (Điều 10 BLTTHS 2003).
Do đó, đồng thời quy trách nhiệm chứng minh tội phạm là của cơ quan tiến hành tố tụng và đồng thời suy đoán có lợi cho người bị tình nghi sẽ góp phần công bằng hơn trong chứng minh trong TTHS.
Thứ hai, nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần bảo vệ hiệu quả quyền con người của bị can, bị cáo. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng buộc tội không thể chứng minh được bị can, bị cáo có tội. Thì người bị tình nghi có quyền, nhưng không cần thiết chứng minh mình vô tội mà mặc nhiên là người vô tội. Quyền im lặng là một biểu hiện rõ nét của nguyên tắc suy đoán vô tội, tạo cơ hội để thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội.
Thứ ba, nguyên tắc suy đoán vô tội đảm bảo cho người bị tình nghi không bị bức cung, nhục hình. Ngoài một số các quyền bị hạn chế áp dụng đối với người bị tình nghi theo quy định của pháp luật thì họ vẫn là người chưa có tội. Vì thế không được phép phân biệt đối xử, trong trường hợp oan sai phải công khai xin lỗi, và bồi thường cho người bị oan, sai. Góp phần hạn chế hơn nữa các vụ án oan sai.
Thứ tư, quyền im lặng và nguyên tắc suy đoán vô tội đảm bảo quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, bị can bị cáo. Rất nhiều trường hợp trên thế giới, do thiếu hiểu biết pháp luật, do bị bức cung, nhục hình mà người bị tình nghi phải thừa nhận những hành vi mà mình không thực hiện, thừa nhận những tội danh mà mình không vi phạm. Từ đó cơ quan tố tụng “xây dựng” một bộ hồ sơ theo hướng “dựng tội” với bị can, bị cáo. Đó là nguyên nhân dẫn đến oan sai. Quyền im lặng là căn cứ để thực hiện tốt hơn quyền được bào chữa, tăng cường phản biện trong tố tụng để tìm ra sự thật khách quan, đảm bảo việc xét xử được công minh, giảm bớt oan sai. Tóm lại, quyền im lặng và suy đoán vô tội là nguyên tắc tiến bộ. Nguyên tắc này bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại.
Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: Họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của mình để kết tội nghi can. Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ luật Tố tụng hình sự, là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực tố tụng hình sự.
Việc quy định cụ thể quyền im lặng để thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự là bức thiết trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Quy định này sẽ là một trong những tiến bộ của hệ thống pháp luật nước nhà, góp phần thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao năng lực trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và đảm bảo thực thi quyền con người.
Luật sư Huỳnh Kim Ngân, Trưởng Văn phòng Luật sư Chân Thiện Mĩ (Đoàn luật sư TpHCM) cho rằng: Theo dư thao thi quy tăc nay đươc ghi tai Điêu 10 gôm 3 khoan. – Tai khoan 1, no đươc chep lai tư Khoan 1 Hiên phap , con vê nôi dung không khac mây khi so vơi quy đinh tai điêu 9 cua BLTTHS hiên hanh. ” Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. – Tai khoan 2, đươc chep lai môt phân cua Điêu 10 BLTTHS hiên hanh. “Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. – Như vây, điêm mơi cua Điêu luât nay thê hiên tai khoan 3 : “Mọi hoài nghi về tội của người bị buộc tội nếu không thể làm sáng tỏ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải xử lý theo hướng có lợi cho họ”. Khoan 1, khoan 2 thê hiên nôi dung mang tinh cơ ban, quy chuân không nhưng đa đươc ghi nhân tai Điêu 31 Hiên Phap ma con đươc quy đinh trong Bô luât TTHS hiên hanh, hoan toan khô co trơ ngai gi trong qua trinh ap dung vao thưc tiên. Tuy nhiên, Khoan 3 Điêu 10 cua Dư thao Bô Luât TTHS chinh la điêm nhân cho ca điêu luât quy đinh vê “ nguyên tăc suy đoan vô tôi“. Rât tiêc, nôi dung tai khoan 3 Điêu 10 dư thao thi không thê hiên đươc khai niêm “suy đoan vô tôi” ma quy đinh khai niêm đa nghia đo la “xư ly theo hương co lơi cho ho”. Quy đinh nay se tao ra nhiêu cach hiêu vê môt điêu luât, dân đên viêc ap dung tuy tiên, gây bât công trong qua trinh ap dung thưc tiên. Con theo nghia đen thi cum tư “xư ly theo hương co lơi cho ho” hoan toan không đông nghia vơi khai niêm “suy đoan vô tôi”. Như vây, theo quan điêm ca nhân tôi thi cân phai thay đôi quy đinh nay vơi nôi dung “nêu không chưng minh ho pham tôi băng trinh tư, thu tuc do bô luât nay quy đinh thi phai xem như ho không pham tôi”.
Luật sư Đặng Văn Cường (Văn phòng luật sư Chính Pháp)
Theo Infonet
"Hối lộ tình dục" cũng là một dạng quấy rối tình dục
"Hối lộ tình dục" là một hình thức quấy rối tình dục "trao đổi" diễn ra khi một người thực hiện hay cố gắng gây ảnh hưởng đến quy trình tuyển dụng, thăng chức, tăng lương... hay các lợi ích khác của người khác ở nơi làm việc để đổi lấy sự thỏa thuận về tình dục".
Hành vi quấy rối tình dục dưới mức xử lý hình sự còn diễn ra nhiều mà chưa có chế tài để xử lý. (Ảnh minh họa)
Bà Lisa Wong, chuyên gia cao cấp của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về phân biệt đối xử, trao đổi với PV Dân trí về việc nhận diện, tính khả thi của Bộ Quy tắc ứng xử về quấy rối tình dục đang thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội.
Thưa bà, trong môi trường làm việc Á Đông, việc nhận diện các hành vi quấy rối tình dục (QRTD) chưa tới mức độ xử lý hình sự dường như còn mới mẻ?
Nhận định đó không hẳn là đúng. Có thể vấn đề đó mới mẻ đối với Việt Nam nhưng không mới mẻ đối với các quốc gia Á Đông khác. Nhiều nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Phillipines, Sri Lanka, Nhật Bản... từ lâu đã đưa vấn đề này vào pháp luật cũng như xây dựng những bộ quy tắc ứng xử về quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Các bạn có thể thấy rằng trong số những nước đó, nhiều nước còn "truyền thống" hơn Việt Nam nhiều, nhưng họ đã làm được.
Nhiều ý kiến cho rằng tập quán, thói quen của người Việt sẽ cản trở nhiều tới những quy định về QRTD. Do vậy, việc tố giác những hành vi QRTD chưa ở mức xử lý hình sự và việc xử lý sẽ rất khó, thưa bà?
Những quan niệm và thói quen nếu không phù hợp, làm người khác khó chịu, ảnh hưởng đến môi trường làm việc cần phải thay đổi.
Nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam trên thực tế đã chủ động đưa nội dung phòng chống QRTD vào chính sách, nội quy tại nơi làm việc từ nhiều năm nay. Họ đã dần thay đổi nhận thức tại nơi làm việc của họ.
Vì vậy, tôi cho rằng việc thay đổi hoàn toàn khả thi. Tuy rằng cần thời gian cho quá trình này.
Bà Lisa Wong, chuyên gia cao cấp của Tổ chức Lao động Quốc tế về phân biệt đối xử.
Mọi việc đều cần phải có một sự bắt đầu từ đâu đó, nếu không tình trạng QRTD sẽ mãi mãi là một vấn đề nhức nhối tại Việt Nam trong nhiều năm nữa. Vì vậy, Bộ Quy tắc ứng xử về QRTD tại nơi làm việc là một sự khởi đầu tốt.
Về vấn đề tố cáo và xử lý những tố giác này, nhiều nước Á Đông khác, thậm chí còn "truyền thống" hơn Việt Nam, họ đã làm được điều này từ lâu. Vậy tại sao Việt Nam không thể làm được?
Trong bối cảnh hiện nay, việc áp dụng Bộ Quy tắc ứng xử này trong môi trường doanh nghiệp sẽ có lợi ích gì?
QRTD tại nơi làm việc là một vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của doanh nghiệp.
Thứ nhất, QRTD tạo ra môi trường làm việc thù địch, không lành mạnh, khiến nạn nhân bị stress, ảnh hưởng đến khả năng lao động của họ. Nhiều người vì thế mà ngại đến chỗ làm, thường xuyên vắng mặt. Điều đó ảnh hưởng đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Có những nạn nhân thậm chí không thể chịu được đã xin nghỉ việc, gây biến động nhân sự. Điều đó cũng gây lãng phí chi phí và công sức doanh nghiệp đã bỏ ra để đào tạo cho họ.
Thứ hai, hiện nay, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và các cuộc đàm phán thương mại tự do đang diễn ra, vấn đề này lại càng quan trọng hơn. Việc đảm bảo thực hiện các quyền con người tại nơi làm việc là một vấn đề mà thế giới rất quan tâm và luôn được đưa vào các cuộc đàm phán thương mại tự do này.
QRTD là một hình thức phân biệt đối xử dựa theo giới, và phân biệt đối xử dựa theo giới vi phạm quyền con người. Bởi vậy, các quốc gia khác, những nước sẽ thông thương với Việt Nam, quan tâm đến việc các hành vi QRTD có được phòng chống ở nơi làm việc hay không.
Nếu doanh nghiệp muốn hội nhập, muốn mở rộng thị trường, họ cần phải nghiêm túc thực hiện việc này. Nếu không, họ sẽ bỏ lỡ những cơ hội quý báu để tăng lợi nhuận.
Thứ ba, việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử về QRTD tại nơi làm việc hầu như không tiêu tốn chi phí tài chính đối với doanh nghiệp. Họ không phải trả tiền như đóng bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra, Bộ Quy tắc đã có những hướng dẫn rất rõ ràng, đã có mẫu chính sách, nội quy phòng chống QRTD mà doanh nghiệp có thể áp dụng ngay lập tức ở nơi làm việc của mình. Vậy, điều đó chỉ có tốt hơn cho doanh nghiệp mà họ không mất đi cái gì.
Cuối cùng, hành vi QRTD tại nơi làm việc là hành vi đã bị nghiêm cấm trong Bộ Luật Lao động 2012, và Việt Nam đã cam kết sẽ sớm ra những văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Vậy trước sau gì doanh nghiệp cũng phải thực hiện.
Chẳng phải tốt hơn nếu họ lại là những đơn vị tiên phong trong cuộc chiến này sao?
Xin cảm ơn bà!
Hoàng Mạnh (thực hiện)
Theo Dantri
Sẽ có buồng giam riêng cho người chuyển giới Dự thảo Luật quy định người chuyển giới có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng. Cuối tuần qua, thay mặt Chính phủ, thừa ủy quyền Thủ tướng, Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an đã trình Quốc hội dự án Luật Tạm giữ, tạm giam. Với 11 chương, 87 điều, dự thảo Luật...