Khơi dậy ý chí thoát nghèo ở vùng nông thôn miền núi – Bài 2: Đi tìm nguyên nhân dẫn đến tái nghèo
Ở một số nơi đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tập quán canh tác lạc hậu, thiếu kiến thức về khoa học, kỹ thuật.
Một số thể chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội liên quan đến khu vực này vẫn còn bất cập, thiếu đồng bộ, nguồn lực đầu tư hạn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Theo Báo cáo của Chính phủ, số dân là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14,7% dân số của cả nước, nhưng tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm đến 57,1% số hộ nghèo cả nước.
Gia đình chị Giàng Xa Ninh, xã Ma Li Pho, huyện Phong Thổ (Lai Châu) có 2 héc ta chuối, mỗi năm thu hoạch hơn 100 triệu đồng. Ảnh: Việt Hoàng/TTXVN.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 2,75% năm 2020
Những năm qua, cấp ủy và chính quyền các cấp luôn quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cùng với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2021 đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Theo Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn dân, công tác giảm nghèo đã đạt được những thành tựu nổi bật. Chính sách pháp luật ngày càng hoàn thiện, ngân sách nhà nước huy động nguồn lực xã hội ngày càng tăng, ý chí vươn lên của người dân được nâng lên, các tấm gương thoát nghèo và các điển hình ngày càng nhiều.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 2,75% năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) giảm 4%/năm. Nhiều huyện nghèo, xã nghèo đặc biệt khó khăn được đầu tư cải thiện hệ thống cơ sở thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Hộ nghèo được hỗ trợ sinh kế, tạo việc làm, tăng thu nhập được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch. Đặc biệt sự chuyển biến về nhận thức và hành động của một bộ phận người nghèo đã xuất hiện một số điển hình làm đơn tự nguyện xin thoát nghèo.
“Chúng ta đã trải qua 6 lần điều chỉnh tiêu chí giảm nghèo. Từ tiêu chí về bảo đảm lương thực nhằm có ăn, có mặc, đến xóa đói giảm nghèo, rồi có mức sống tối thiểu… và hiện nay đang áp dụng chuẩn nghèo đa chiều. Chính vì vậy mà Việt Nam là một trong 30 quốc gia trên thế giới và cũng là nước đầu tiên trong khu vực châu Á áp dụng phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, sớm hoàn thành mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho hay.
Video đang HOT
Cũng theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, giai đoạn 2021-2025 chúng ta đặt mục tiêu yêu cầu cao về giảm nghèo đa chiều, bình quân cả nước giảm từ 1 – 1,5% trong năm. Chương trình quốc gia về giảm nghèo chú ý đến địa bàn là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo trên phạm vi toàn quốc. Trong đó, có cả các đối tượng nghèo mới phát sinh vì các lý do khác nhau, kể cả những ảnh hưởng do COVID-19, đối tượng nghèo có cả ở nông thôn và thành thị. Chú trọng các địa bàn còn nhiều khó khăn.
Mặc dù chính sách giảm nghèo đã có nhiều kết quả, tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, đó là tốc độ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn nằm trong nhóm cao nhất của cả nước. Một bộ phận các hộ đã thoát nghèo, nhưng ở những nơi thường xuyên chịu tác động của thiên tai vẫn có nguy cơ cao tái nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào DTTS vẫn còn ở mức cao và thu nhập bình quân đầu người thấp.
Giải bài toán thoát nghèo bền vững
Bà Âu Thị Mai, dân tộc Sán Chay, đại biểu Quốc hộ tỉnh Tuyên Quang cho rằng, nguyên nhân của việc giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững là do nguồn lực thực hiện chương trình chưa đảm bảo, còn dàn trải, manh mún, các mô hình sản xuất nông nghiệp được hỗ trợ nhưng hiệu quả kết nối giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm phát triển theo chuỗi giá trị còn hạn chế. Các mục tiêu về hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, sử dụng nước, hợp vệ sinh, sử dụng điện lưới quốc gia chưa đạt yêu cầu đề ra. Bên cạnh đó nhiều hộ gia đình còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nhà nước, chưa có ý thức vươn lên thoát nghèo.
Đồng quan điểm này, bà Triệu Thị Huyền, dân tộc Dao, đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái cho rằng nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do khu vực miền núi phía Bắc có địa hình đồi núi chia cắt mạnh lại thường xuyên chịu tác động của thiên tai. Hơn nữa, hạ tầng kinh tế – xã hội thiếu đồng bộ, giao thông đi lại khó khăn, diện tích đất canh tác hạn chế, người dân còn thiếu tư liệu sản xuất. Trình độ dân trí chưa đồng đều, chất lượng nhân lực thấp.
Cán bộ, chiến sỹ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu giúp nhân dân huyện Phong Thổ làm đường giao thông nông thôn. Ảnh: Việt Hoàng/TTXVN.
Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV khi thảo luận về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, nhiều đại biểu Quốc hội đồng tình khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 kết cấu với 6 dự án, 11 tiểu dự án; trong đó bổ sung các tiểu dự án để giải quyết các chiều thiếu hụt dịch vụ xã hội như nhà ở cho hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn huyện nghèo, cải thiện dinh dưỡng cho người nghèo là cần thiết.
Để Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đạt hiệu quả, đồng thời khắc phục những hạn chế trong giai đoạn vừa qua, một số đại biểu Quốc hội cho rằng Chính phủ, các cấp, các ngành cần có giải pháp căn cơ, tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết về đời sống của người dân như tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của đồng bào DTTS vùng nghèo và hộ nghèo ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Đây là điều kiện tiên quyết trong công tác giảm nghèo bền vững.
Bà Âu Thị Mai, đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang đề nghị cần tiếp tục tích hợp ban hành các chính sách hỗ trợ giảm nghèo trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội theo hướng hỗ có điều kiện. Chỉ hỗ trợ trực tiếp đối với các chính sách có ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội như giáo dục, y tế. Còn lại các chính sách khác hỗ trợ bằng hình thức cho vay có hoàn trả. Đồng thời, tiếp tục tăng mức hỗ trợ cho vay tín dụng ưu đãi và kéo dài thời hạn vay vốn đối với lãi suất cho một số loại hình sản xuất có chu kỳ như: Chăn nuôi trâu, bò, trồng rừng và các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng nông thôn. Thực tế hiện nay có nhiều hộ gia đình có nhu cầu vay vốn rất lớn nhưng tâm lý do lo ngại rủi ro, chi phí sản xuất cao, lợi nhuận thấp, không có khả năng trả nợ.
Phải đặt người nghèo ở vị trí chủ thể trung tâm của công tác giảm nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền mục tiêu giảm nghèo đến các cấp, các ngành, mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là người nghèo. Khơi dậy ý thức tự chủ, vươn lên thoát nghèo, loại bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính sách của nhà nước mà phải sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhà nước, của cộng đồng để vươn lên thoát nghèo.
Trung ương cần tiếp tục dành nguồn lực đầu tư cho các tỉnh miền núi, trong đó ưu tiên đầu tư hạ tầng kết nối giao thông, kết nối vùng, liên vùng và kết nối các tỉnh miền núi, các huyện nghèo trong vùng. Hạ tầng điện lưới quốc gia theo thống kê thì hiện nay cả nước còn khoảng 900.000 hộ chưa được sử dụng điện lưới quốc gia. Các công trình dự báo, cảnh báo, phòng và chống thiên tai tiếp tục bố trí nguồn lực sớm hoàn thiện. Sắp xếp và bố trí lại dân cư, di dân khỏi vùng nguy cơ cao lũ ống, lũ quét và sạt lở đất, nhằm hạn chế mức thấp nhất ảnh hưởng của thiên tai tới đời sống và sản xuất của người dân.
Khu vực miền núi phía Bắc là nơi đồng bào DTTS sinh sống, là địa bàn có tỷ lệ che phủ rừng cao so với bình quân chung của cả nước nhưng lại là lõi nghèo, sinh kế của người dân chủ yếu gắn với kinh tế rừng. Vì vậy, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần bảo vệ tài nguyên rừng, môi trường sinh thái đầu nguồn, trung ương cần có chính sách đặc thù hỗ trợ các địa phương quản lý, phát triển, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước, phát triển kinh tế – xã hội để người dân sống được bằng nghề rừng và làm giàu từ rừng.
Theo thống kê hiện trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khoảng 58.000 hộ thiếu đất ở, đất sản xuất. Trên 300.000 hộ thiếu nước sinh hoạt.
Bài cuối: Chuyển người nghèo từ đối tượng sang chủ thể
Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt
Đây là yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) Đào Ngọc Dung đưa ra tại Lễ ký kết chương trình phối hợp công tác giữa Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp và Cục Việc làm (thuộc Bộ LĐ-TB&XH), diễn ra ngày 22/4, tại Hà Nội.
Phát biểu tại lễ ký kết, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung biểu dương lãnh đạo hai đơn vị đã chủ động bàn thảo, bắt tay để xúc tiến những công việc có tính chất nền tảng của toàn ngành trong thời gian tới về lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và việc làm.
Điểm lại một số kết quả nổi bật của ngành trong lĩnh vực GDNN, lao động việc làm 5 năm qua, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh: Đổi mới nâng cao chất lượng GDNN, gắn kết công tác đào tạo với thị trường lao động, việc làm bền vững, an sinh xã hội được thực hiện đồng bộ; Giải quyết việc làm gần 8 triệu lao động; Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị luôn duy trì ở mức dưới 4 %; Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động khu vực nông lâm ngư giải từ 45% năm 2015 xuống còn 32% năm 2020...
Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 khâu đột phá chiến lược. Một trong 3 khâu đột phá chiến lược là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt.
Ông Trương Anh Dũng, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Giáo dục nghề nghiệp (bên phải) và ông Vũ Trọng Bình, Cục trưởng Cục Việc làm ký kết chương trình phối hợp công tác trước sự chứng kiến của lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XH (Ảnh: TG)
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng, một trong những nhiệm vụ của 5 năm tới là chuyển đổi kỹ năng cho người lao động nhằm mục tiêu phát triển bao trùm bền vững với 3 trụ cột cơ bản là kỹ năng lao động, việc làm thỏa đáng và an sinh bền vững. Phải nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 70-75%, trong đó tỷ lệ có chứng chỉ, bằng cấp đạt 30% (hết nhiệm kỳ 2021-2025) tiến đến 40% vào năm 2030. Đây là tỉ lệ tương đương mặt bằng chung các nước phát triển.
"Nghị quyết Đại hội XIII nhấn mạnh việc phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Điều đó đã đặt ra mục tiêu thời gian tới của ngành phải khơi dậy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN theo hướng linh hoạt và mở" - Bộ trưởng Đào Ngọc Dung lưu ý.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh nhiệm vụ tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.
Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung việc gắn kết GDNN và việc làm là yêu cầu tất yếu và bắt buộc chúng ta phải đổi mới trong 5 năm tới.
Để làm được điều đó, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung yêu cầu các Bên thực hiện tốt nhiệm vụ chính: Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức cho cha mẹ, người học, xã hội coi việc học nghề là tất yếu; tập trung xây dựng hệ thống và dự báo cung cầu lao động; gắn chặt giữa đào tạo với tạo việc làm...
Theo chương trình phối hợp, giai đoạn 2021-2025, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp và Cục Việc làm sẽ phối hợp nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung nhiệm vụ sau:
Xây dựng, tham mưu xây dựng các chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của các Bên.
Xây dựng, triển khai chương trình, dự án, đề án tăng cường mối quan hệ giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các tổ chức dịch vụ việc làm.
Xây dựng, triển khai các chương trình, dự án, đề án đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho các đối tượng chính sách....
Cấp bằng Tổ quốc ghi công cho 343 liệt sĩ Thủ tướng Chính phủ vừa có quyết định cấp bằng Tổ quốc ghi công cho 343 liệt sĩ theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động, thương binh và xã hội. Ảnh minh họa. 343 liệt sĩ được cấp bằng Tổ quốc ghi công theo Quyết định 109/QĐ-TTg thuộc: Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ...