Khiếp đảm “rừng ma”
Đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam đến nay vẫn còn tin vào chuyện “ma rừng” nên phải đốt bản, dời làng liên miên. Đối với người dân nơi đây, nói đến “ rừng ma”, ai cũng bạt vía kinh hồn.
Cho đến nay, người dân tộc Xê Đăng, Ca Dong ở huyện miền núi Nam Trà My vẫn quan niệm rằng sự c.hết chóc là điềm xấu cho cả làng. Nếu trong làng có người c.hết do tai nạn thì đó được gọi là cái c.hết xấu, già làng sẽ ra lệnh cho cả làng rời bỏ vườn tược, di dời đến nơi ở mới để tránh bị “con ma xấu” làm hại, việc chôn cất t.ử t.hi cũng được thực hiện rất sơ sài. Người c.hết được chôn tập trung trong một khu rừng, được dân làng gọi là “rừng ma”. Đối với người dân nơi đây, nói đến “rừng ma”, ai cũng bạt vía kinh hồn.
Ám ảnh cả đời
Con đường duy nhất uốn lượn theo hình vòng cung cao hun hút dẫn vào xã Trà Cang, huyện Nam Trà My, hết sức hiểm trở. Sáng sớm, những mái nhà nằm cheo leo trên đỉnh núi đọng lại từng đám sương trắng xóa. Tiếng chim kêu, tiếng nước chảy róc rách xua tan không gian yên tĩnh của rừng núi hoang vu. Dù đã vào giờ hành chính nhưng trụ sở xã Trà Cang vắng ngắt. Một cán bộ lý giải: Ở xã miền núi xa xôi này thường phải đến 9 giờ sáng mới có người dân đến làm việc, vì thế chuyện cơ quan công quyền vắng người là bình thường.
Một khu “rừng ma” ở thôn 1, xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam
Hỏi về chuyện “rừng ma”, anh Hồ Văn Thơm – cán bộ văn phòng xã Trà Cang, là người dân tộc Xê Đăng – giải thích: Đó là một khu rừng cấm, rừng thiêng của bản làng. Nơi đó dành riêng để chôn người c.hết, mỗi làng đều có 1 khu rừng như vậy. Anh Thơm cho biết khác với đồng bào thiểu số sống trên dãy Trường Sơn có tục lệ chôn cất, thờ phụng, xây nhà mồ cho người c.hết, người Ca Dong và Xê Đăng ở huyện Nam Trà My thường rất hãi hùng khi phải khiêng người c.hết đi chôn cất. Nếu trong làng có người qua đời, già làng sẽ làm lễ cúng để “hồn ma” không về quấy rầy người sống.
Điều độc đáo trong nghi thức tang ma của người dân nơi đây la tuc cong xác ngươi chêt đi chôn. Nếu người c.hết là cha mẹ thì con trai trưởng phải đích thân cõng đi. Theo họ, cong xác cha mẹ đi chôn chinh la hành động bao hiêu cua con cai va linh hôn cha mẹ cung nhanh đươc siêu thoat hơn. Ngươc lai, nêu ngươi con chêt trươc thi ngươi cha phai lam nhiêm vu cong con. Trương hơp ngươi cha chêt trươc ma ngươi con con qua nho không thê cong cha đươc thi viêc đo đươc môt ngươi thân trong ho hang giup đơ. Khi đi chôn, tất cả người dân trong làng đều phải cùng theo vào “rừng ma”.
Sau khi cõng x.ác n.gười c.hết vào tới “rừng ma”, mọi người sẽ tập trung hạ 1 cây gỗ lớn, khoét lỗ để bỏ t.hi t.hể vào rồi đào hố lấp lại. Công đoạn này được làm rất nhanh và sơ sài vì ai cũng rất sợ hãi khi phải đặt chân vào “rừng ma”. Chính vì chôn cất sơ sài nên có nhiều t.hi t.hể bị thú rừng đào bới phá hủy hoặc mưa lũ bào xói làm lộ thiên. Sau khi táng xong, những người tham gia chôn cất sẽ chạy về thật nhanh, sau đó ra suối tắm rửa để khỏi bị ám, đồng thời để “rửa sạch cái xấu xa”.
Ở nhiều nơi còn có tình trạng sau khi chôn cất người c.hết xong, mọi người sẽ ở lại ngoài rẫy 3 ngày để tránh “hồn ma” chạy theo về làng. Ngoài ra, nếu trong làng có người c.hết do bị tai nạn, bị nước cuốn trôi, bị rắn cắn… thì sau khi chôn cất t.hi t.hể, già làng sẽ cúng heo, gà rồi ra lệnh dời làng đi nơi khác cách đó vài cánh rừng để tránh bị “con ma xấu” làm hại. “Đối với người dân nơi đây, khi nhắc đến “rừng ma” họ đều cảm thấy rất lo sợ. Không có ai dám đặt chân đến đó vì sợ “ma” cũng như sợ bị làng phạt nặng” – anh Thơm nói.
Khổ vì tin lời đồn đại, huyễn hoặc
Chúng tôi được anh Hồ Văn Thung, công an viên xã Trà Cang, dẫn băng qua những con dốc dựng đứng vào các thôn, bản sâu hun hút trong núi rừng. Giữa cánh rừng bạt ngàn, vài chục nóc nhà lác đác mọc chụm vào nhau vắng tanh, không một bóng người; lâu lâu chúng tôi bỗng giật mình bởi tiếng đạp chạy của những chú heo được thả nuôi gần làng. Khung cảnh vắng vẻ tạo nên cảm giác buồn tê tái in hằn vào tâm trí những lữ khách.
Chỉ vào một khu “rừng ma”, anh Thung cho biết: “Khu “rừng ma” rất dễ nhận biết, cứ nhìn vào khu nào có nhiều hòn đá nằm lởm chởm, nhiều hang đá, nhiều thân cổ thụ cao to, dây leo chằng chịt, cây bụi mọc um tùm, hoang hoải thì đó chính là “rừng ma” của cư dân địa phương”.
Video đang HOT
Già làng Hồ Văn Dài (ngụ nóc Ngọc Nậm, thôn 1, xã Trà Cang) nói rằng ông không biết phong tục chôn người tập trung tại một khu rừng có từ bao giờ. Già Dài từ khi là một đ.ứa t.rẻ đã được khuyên đừng đặt chân tới “rừng ma” vì điều đó sẽ mang lại hậu quả cho bản thân và bản làng. Những câu chuyện ly kỳ về “rừng ma” được kể trong những buổi họp làng rồi cứ thế, thế hệ này qua thế hệ khác, mỗi đ.ứa t.rẻ ra đời và lớn lên cũng đều được nghe và ăn sâu vào tiềm thức.
Già làng Hồ Văn Dài kể chuyện về những khu “rừng ma”
Chuyện rằng có người thợ săn sau hơn 3 ngày đêm theo dấu chân thú hoang đã bị lạc vào khu “rừng ma” và b.ắn trúng con heo rừng rất to. Khi c.hết, con heo rừng tựa vào gốc cây, đầu gục xuống đất; người thợ săn chạy đến thì phát hiện trên 2 nanh dài của con heo có cắm 2 sọ người còn nguyên hốc mắt và đầy m.áu. Người thợ săn sợ quá vừa chạy về nóc vừa vác con heo săn được báo cho dân làng. Chỉ mấy ngày sau, người thợ săn ấy bỗng hóa điên khùng rồi lăn ra c.hết tại một gốc cây, đầu cắm xuống đất giống tư thế của con heo anh săn được tại “rừng ma” hôm nào.
Chưa hết, người dân trong nóc về sau cũng bị “ma rừng” ám nên lâm bệnh tật, đau ốm…, đành phải dời làng cách mấy quả núi mới làm ăn yên ổn.
Theo lời già làng, có một thanh niên ở ngôi làng nằm dưới chân đỉnh Ngọk Linh bỏ qua lời căn dạy. Một ngày, anh ta đến khu “rừng ma” để chặt đót. Khi gùi bó đót về đến đầu làng, anh thanh niên bỗng hộc m.áu, bò về đến nhà thì tóc rụng từng mảng và 3 ngày sau lăn ra c.hết. Già làng liền ra lệnh đốt làng và dời đi nơi khác cách đó 4 quả núi mới được yên.
Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Thanh Tòng, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Nam Trà My, cho biết thực tế ở Nam Trà My vẫn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu, cần loại bỏ, chẳng hạn như chuyện “ma rừng”. Nhiều năm nay, huyện cũng thường xuyên tổ chức tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số; cử cán bộ đến tận các thôn, bản để tuyên truyền, vận động người dân. Tuy nhiên, việc vận động bà con bỏ những phong tục lạc hậu còn gặp nhiều hạn chế do địa hình đi lại khó khăn, người dân thiếu hiểu biết và những hủ tục này đã ngấm sâu trong đời sống tinh thần của họ. Hiện nay, huyện Nam Trà My đang mở một số con đường từ trung tâm huyện đến các xã để giảm bớt sự cách trở, tạo điều kiện cho bà con có điều kiện cải thiện đời sống, hỗ trợ hiệu quả công tác tuyên truyền về lối sống văn minh, qua đó từng bước loại bỏ các hủ tục.
Theo Quang Vinh
Việt kiều trong rừng thẳm
Người Cơ Tu sống hai bên dòng sông A Sáp thuộc hai nước Việt-Lào dọc dải biên giới A Lưới (TT-Huế) và Ka Lô (huyện Kà Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) có chung một già làng. Nhiều người đã được nhập tịch Việt Nam sau 20 năm lang bạt rừng sâu núi thẳm.
Hiện, họ đã từ bỏ cuộc sống du mục và đặt ra quy ước: Ai vào rừng bẫy thú, đốt nương, đ.ánh bắt cá bằng thuốc nổ sẽ bị phạt vạ.
Người Cơ Tu sống ở bản Arooc, Ka Lô (Kà Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) và những người cùng dân tộc mình đang định cư ở các thôn giáp biên giới A Tin, La Tưng, Chi Hòa (xã A Đớt, huyện A Lưới, tỉnh TT-Huế) tự giao kèo với nhau như vậy. Và họ đã làm được.
Gia đình Kê Un sống yên bình trên quê hương.
Những "Việt kiều" che thân bằng lá cây
Kê Un, 35 t.uổi, cùng hai người anh em là Kê Ooc, Kê Ai vừa được nhập quốc tịch Việt Nam hồi đầu năm ngoái. Cách đây gần 20 năm, gia đình Kê Un ở thôn Pa E (xã Nhâm, huyện A Lưới). Cuộc sống khốn khó, cả nhà dắt díu nhau lội sông A Sáp qua đất Lào phát nương, làm rẫy. Họ dựng chòi từ những cây tranh, lồ ô, tre nứa... để rồi qua mùa rẫy lại tiếp tục đi tìm vùng đất mới.
Dùng vỏ cây a mâng làm áo quần, hái lá cây lớn làm chén bát, lấy rễ cây làm thuốc, họ sống qua từng con rẫy cho đến khi anh trai của Kê Un mất vì sốt rét và bố Kê Un nằm lại chốn núi rừng. Những thành viên còn lại trong gia đình thất thểu bỏ rừng trở về quê hương. Những Việt kiều sống trong sự đùm bọc của bà con đồng bào Cơ Tu, Tà Ôi ở thôn A Tin, xã A Đớt. "Dân làng cho mình gạo, muối, khoai sắn. Sau đó cho thêm cây giống để làm rẫy, làm ruộng" - Kê Un nói.
Không riêng Kê Un, hơn 200 Việt kiều ở bản Ka Lô (huyện Kà Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) đều được người dân Việt Nam cưu mang, giúp đỡ. Gần 30 năm trước, những người Cơ Tu, Tà Ôi ở A Lưới (TT-Huế) và Tây Giang (Quảng Nam) cắt rừng tiến qua đất Lào tìm cuộc sống mới. Họ tụ tập lại, dựng nên bản Ka Lô. "Chỉ biết phát nương làm rẫy, săn thú, bắt cá kiếm ăn" - Ploong Hiar, một trong những người già nhất bản, kể.
Già làng Đặng Sơn Thi (trái) gửi thóc giống cho già Ploong Hiar mang qua giúp dân Ka Lô
Năm 2007, bản Ka Lô vốn nằm sâu trong cánh rừng của dãy Trường Sơn, được di dời ra gần tuyến đường. Vùng định cư mới "chỉ" còn cách trung tâm huyện Kà Lừm 130km. Từ rừng sâu, người dân Ka Lô bồng bế nhau ra vùng đất mới. Cách khu định cư mới của bản Ka Lô chừng 2 giờ băng rừng, thôn A Tin (xã A Đớt) trở thành nơi nghỉ chân của những Việt kiều mới ra từ rừng thẳm. Đối với những Việt kiều che thân bằng lá cây thì hình ảnh những người dân Việt cùng dòng m.áu Cơ Tu, Tà Ôi mang quần jeans ống loe, đi xe máy như ở một thế giới khác.
Sống hàng chục năm trên đất Lào, ngôn ngữ của họ dần bị mai một. Trong khi t.rẻ e.m Cơ Tu ở A Đớt đã có thể nói lau láu tiếng Kinh. Bằng những nét tương đồng còn sót lại trong ngôn ngữ, văn hóa, họ nhanh chóng thấu hiểu hoàn cảnh, cuộc sống của đôi bên. Dân làng A Tin bàn nhau chia một phần lương thực của mình để nuôi những người đồng bào đã nhiều ngày liền băng rừng chỉ ăn lá cây cầm hơi. Hơn một tháng, những người Cơ Tu đất Việt mở rộng tấm lòng, bao dung đón những đứa con lưu lạc.
Khi bản Ka Lô được xây dựng xong, bà con A Tin gom góp các loại cây giống, con giống cho họ mang theo. Người Cơ Tu ở A Tin còn đi theo họ qua đất Lào để hướng dẫn họ gieo hạt, xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới. "Chúng tôi còn bày họ cách nấu mì tôm" - già làng Đặng Sơn Thi (thôn A Tin), nói.
Già làng "lưỡng quốc"
"Bà con bên Lào thấy người Việt dùng chất nổ g.iết hết cá nhỏ cá to. Họ nói nên đặt ra quy ước: dùng chất nổ sẽ bị phạt vạ bò, heo. Dân trong thôn, ai cũng đồng ý. Cá sông Trôn, sông A Sáp lại đầy". Già làng Đặng Sơn Thi
Già làng Đặng Sơn Thi - đã sống gần 70 mùa rẫy - không thể nhớ hết những lần ông qua đất Lào, khi mang mì tôm, thóc lúa, lúc mang mắm muối, đồ khô cho bà con Việt kiều ở Ka Lô. Bây giờ, cuộc sống của người Ka Lô đã ổn định, không còn du canh du cư, tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. T.rẻ e.m không được đến trường, lúc đau ốm bệnh tật không có bác sĩ, phải băng rừng qua biên giới mới có một trạm xá Quân Dân y do đồn Biên phòng Cửa khẩu A Đớt dựng lên.
"Thỉnh thoảng, người dân Ka Lô lại qua A Tin xin thóc lúa, cây giống" - già làng Đặng Sơn Thi cho hay - "Họ đến nhà người nào ở A Tin, nhà đó sẽ cho. Nếu nhà đó không có, nhà bên cạnh phải có trách nhiệm giúp đỡ. Người Cơ Tu ở Ka Lô chỉ xin đủ, không lấy thừa, bà con mình ai có lòng thì cho thêm. Nhưng đưa nhiều quá họ cũng không lấy".
Đối với bà con bản Ka Lô bên đất Lào, già Thi và những người dân ở thôn A Tin là chỗ dựa cho họ. Mỗi lời già Thi nói ra đều được người dân hai bên nghe theo răm rắp. Già Thi tham gia cách mạng từ năm 1967, đã có gần 15 năm làm cán bộ xã, Chủ tịch Hội Nông dân xã.
Từ già Thi, những hương ước được cả hai bên đưa ra và thực hiện với sự chứng giám của núi rừng. Không săn bắt thú rừng, không khai thác lâm sản, không chia rẽ Việt - Lào, thậm chí những ứng xử giản đơn như uống rượu không được nói nặng lời, không phá phách cũng được bà con hai bên quy ước với nhau.
Cả làng nghe lời già Thi, bà con Việt kiều ở Ka Lô ai cũng yêu mến gọi già Thi bằng Pả (bố).
Thanh niên Ka Lô qua biên giới giao lưu với những người bạn Việt
Rừng thẳm tình thâm
Có lần chập choạng tối, hai anh em A De, A Zoan ở bản Ka Lô đi đ.ánh cá ở khe Tam Ra trong rừng sâu. A Zoan bị trượt ngã, gãy chân. A De đang luống cuống thì gặp Đặng Sơn Tinh ở thôn A Tin cũng vừa đi đ.ánh cá về. Người thanh niên thôn A Tin liền sơ cứu, chặt cây làm nẹp rồi khiêng chàng Việt kiều A Zoan về trạm xá bên đất Việt. Nằm nghỉ ngơi mấy ngày liền, lúc ra đi, hai anh em A Zoan, A De chỉ biết ôm chặt lấy những người đồng bào thay cho lời cảm ơn.
Kê Un giờ đã có ba đứa con, đứa lớn 15 t.uổi. Với Kê Un, năm sào ruộng và những rẫy bắp, rẫy chuối cùng gà, heo đầy chuồng là những thứ mà cách đây mấy chục năm, cả gia đình Kê Un rời bỏ quê hương dấn thân vào rừng để tìm kiếm. "Nay Nhà nước cho nhập quốc tịch, được cấp đất xây nhà, con đi học, ốm đau không phải lo, hai vợ chồng bớt cực khổ" - Kê Un nói.
Theo ông Hồ Minh Đường, chủ tịch UBND xã A Đớt: "Ba thôn giáp biên giới Việt - Lào gồm A Tin, La Tưng và Chi Hòa gồm hơn 230 hộ, trong đó có 7 hộ dân được nhập quốc tịch Việt Nam".
Kê Un và hai người anh em Kê Ooc, Kê Ai đều lấy vợ Việt. Ở thôn Chi Hòa và thôn A Ngo cũng đã có những người phụ nữ Lào theo chồng về đất Việt sinh sống. Thỉnh thoảng, thanh niên Ka Lô lại băng rừng qua biên giới gặp gỡ đồng bào đất Việt. Những cuộc tình xuyên biên giới nảy nở. Những đứa con mang hơi thở núi rừng được sinh ra như bằng chứng sắt son về tình dân tộc giữa đại ngàn.
"Để hỗ trợ người dân Ka Lô xây dựng cuộc sống mới, cán bộ chiến sỹ ĐBP cửa khẩu A Đớt đã tham gia xây dựng 42 căn nhà, thực hiện nhiều đợt khám chữa bệnh, cấp phát thuốc, chăn màn..., định kỳ hàng tháng cùng đoàn y tế huyện, Sở NN&PTNT cung cấp giống và hướng dẫn bà con các kỹ thuật canh tác hiện đại..." - thượng tá Trần Danh Tuệ, chính trị viên đồn Biên phòng Cửa khẩu A Đớt, cho biết.
Theo Lê Quang Minh (T.iền Phong)
Phó Thủ tướng: CSGT phải mặc thường phục đi kiểm tra xe khách, taxi Để ngăn chặn và xử lý triệt để vi phạm nhà xe nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu lực lượng Cảnh sát giao thông (CSGT) phải mặc thường phục thường xuyên đi xe khách, taxi để kiểm tra và sớm phát hiện vi phạm. Vấn đề trên được đưa ra trong Hội...