Khi tàu Trung Quốc nổ súng vào tàu cá Việt Nam
Thêm một hành động leo thang đặc biệt nghiêm trọng của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 20-3, tàu Trung Quốc đã truy đuổi và nổ súng bắn cháy cabin một tàu cá Việt Nam, khi tàu này đang đánh bắt cá trên chính ngư trường quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gọi đây là hành động sai trái và vô nhân đạo vì nó đã đe dọa tính mạng ngư dân Việt Nam. Rõ ràng hành động của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở mức đe dọa dùng vũ lực, mà họ đã trực tiếp sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền hợp pháp của Việt Nam trên vùng biển này.
Chưa hết, ngày 24-3, Nhân dân nhật báo Bắc Kinh ngang nhiên đưa tin hai tàu thuộc Hạm đội Nam Hải, tàu Tỉnh Cương Sơn cùng các khu trục hạm Lan Châu, hộ vệ hạm Hoành Thủy và nhiều chiến đấu cơ sẽ tuần tra và diễn tập trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Như vậy là họ đã đơn phương đưa tranh chấp biển đảo với nước ta tới một bước ngoặt nguy hiểm.
Chúng ta nhiều lần tuyên bố sẽ đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ ngư dân một cách hòa bình, thông qua con đường ngoại giao, thương lượng song phương và đa phương, không khoan nhượng về pháp lý và sự thật lịch sử, rất cố gắng bảo vệ tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc. Trong thời điểm nghiêm trọng dễ bị kích động, chúng ta vẫn kiên định lập trường ấy, bởi vì chúng ta tin vào lương tri của người dân Trung Quốc, mong muốn của nhân dân trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên cũng rất cần phải bình tĩnh, sáng suốt tìm ra cách xử lý thiết thực, đúng đắn để bảo vệ cho được toàn vẹn chủ quyền.
Trước khi gây hấn với bên ngoài, các thế lực bá quyền của Trung Quốc luôn tìm cách kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi trong nước, cho báo chí nói xấu Việt Nam là vô ơn, là kẻ chiếm biển đảo của Trung Quốc. Chúng ta đã nhận ra, bắt đầu có cảnh giác, nhưng vẫn chưa đủ. Phải nghiêm túc soát xét lại để loại bỏ những gì trong quan hệ hợp tác bị thiên lệch, không đạt mục tiêu hai bên cùng có lợi. Trước sự đe dọa của ngoại bang, điều quan trọng nhất là phải thực hiện cho được đại đoàn kết dân tộc. Lịch sử Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng lòng yêu nước và đoàn kết dân tộc mạnh hơn mọi thứ vũ khí của kẻ xâm lược.
Một bài học quan trọng khác từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của chúng ta là sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Thời đại luôn có sự phân hóa và tập hợp lực lượng mới của nhân loại tiến bộ theo hướng hòa bình và hợp tác, quan tâm nhau, chống lại các thế lực gây chiến xâm lược. Chúng ta chủ trương không liên minh với một nước nhằm chống lại nước thứ ba. Nhưng không có nghĩa là làm triệt tiêu khả năng khi bị xâm lược không có ai là bạn sẵn sàng cứu giúp. Vấn đề là phải chứng tỏ được với bạn bè gần xa rằng VN nằm trong lực lượng tiến bộ của nhân loại yêu hòa bình, không ngừng đổi mới theo hướng tự do, dân chủ, thực hiện quyền con người, có khả năng đóng góp tích cực cho ASEAN và cho thế giới.
Ngày 24-3, bên chiếc tàu cá bị bắn cháy vừa cập bến, thuyền trưởng Phạm Quang Thạnh tuyên bố với báo chí rằng mình quyết sống xứng đáng với ông cụ tổ Phạm Quang Hành ra khai thác Hoàng Sa từ thế kỷ 17. Nếu được giúp đỡ vốn liếng sửa chữa tàu, anh sẽ tiếp tục ra Hoàng Sa vừa đảm bảo cuộc sống riêng, vừa góp phần khẳng định chủ quyền đất nước.
Tuần trước, trong cuộc hội thảo về biển Đông ở New York, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ – ông Chistopher Hill – nói: “Chắc chắn nếu bạn là một ngư dân VN thì vào lúc này bạn sẽ không hề thấy có tự do hàng hải ở biển Đông”. Việc này cho thấy dư luận quốc tế đứng về phía chúng ta. Vấn đề còn lại là bản thân ta biết cách nhân lên tiềm năng bên trong và bên ngoài như thế nào để bảo vệ mình.
Theo ANTD
Video đang HOT
PGS.TSKH.NGƯT Nguyễn Hải Kế: Nhà giáo, nhà khoa học tận tâm, tận lực, người bạn tận tình
Với cương vị là Chủ nhiệm Khoa, từ năm 2004, PGS.TSKH.NGƯT Nguyễn Hải Kế vững lái con thuyền Khoa Lịch sử ở vào thời điểm nhiều khó khăn khi lớp các thầy cô lẫy lừng lần lượt nghỉ hưu hay nhiều anh em bạn bè trang lứa chuyển sang đơn vị công tác khác.
1. Năm 1974, tốt nghiệp Trường Phổ thông cấp III Ngô Quyền danh tiếng của thành phố Hải Phòng, anh thanh niên Nguyễn Hải Kế trở thành sinh viên Khoá 15 Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Khác với nhiều người bị "ép" vào Khoa Lịch sử (dù rồi về sau cũng mê sử, và trở thành những nhà sử học danh tiếng), Nguyễn Hải Kế đến với sử một cách tự nguyện.
Theo học chuyên ngành Lịch sử cổ trung đại Việt Nam, anh được các thầy cô nổi tiếng của Bộ môn dạy dỗ, rèn cặp, truyền trao, không chỉ tri thức mà cả niểm đam mê cháy bỏng. Tốt nghiệp xuất sắc, anh trở thành cán bộ giảng dạy của Bộ môn và gắn bó với Khoa Lịch sử, với nghề làm sử, nghề làm thầy giáo sử từ ấy. Sau những năm tháng tuổi trẻ hết mình cho phong trào Đoàn, năm 1987 anh được sang Liên Xô học tập, làm luận án Phó Tiến sĩ rồi Tiến sĩ.
Trở về sau 9 năm đất khách quê người, hai năm sau (1998) cùng lãnh đạo Khoa Lịch sử và Giáo sư Trần Quốc Vượng, anh lao mình vào xây dựng Bộ môn Lịch sử văn hoá Việt Nam (nay đổi là Văn hoá học và Lịch sử văn hoá Việt Nam).
Từ đấy, trên nền tảng kiến thức vững chắc về lịch sử Việt Nam, nhất là về thời kì cổ đại và trung đại, anh say mê tìm hiểu, khám phá những khía cạnh của đời sống văn hoá dân tộc, từ truyền thống để thức nhận cái hiện tại hay giải mã cái hiện tại từ biện chứng của truyền thống.
Mười lăm năm nỗ lực hết mình, anh cùng các đồng nghiệp, học trò đã làm nên một chuyên ngành đào tạo chững chạc, có uy tín và thu hút đông đảo sinh viên ngành Lịch sử theo học, được xã hội thừa thừa nhận, chấp nhận và đánh giá cao.
PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế, văn phòng Khoa Lịch sử, ngày 01/02/2010.
Với cương vị là Chủ nhiệm Khoa, từ năm 2004, anh vững lái con thuyền Khoa Lịch sử ở vào thời điểm nhiều khó khăn khi lớp các thầy cô lẫy lừng lần lượt nghỉ hưu hay nhiều anh em bạn bè trang lứa chuyển sang đơn vị công tác khác.
Một thế hệ cán bộ sinh từ nửa sau thập niên bẩy mươi mà nay đã chiếm tới gần hai phần ba Khoa Lịch sử được anh chăm chút đã trưởng thành, từng bước và đủ sức tiếp nối sứ mệnh, uy tín, danh tiếng của một đơn vị đào tạo và nghiên cứu sử học hàng đầu của cả nước.
2. Anh vẫn nói anh thích lắm nghề làm thầy giáo, mặc dù anh cũng lại nói: "Với đông đảo những người đầu tư vào việc đi học, đi thi, để chọn ngành chọn nghề, thì nghề làm thầy giáo là sự lựa chọn cuối cùng, chứ không phải đầu tiên trong điều tiết của xã hội Việt Nam. Vì thế những ai, từ tuổi thanh xuân bước lên bục giảng cho đến khi được về nghỉ hưu, vẫn thuỷ chung với nghề dạy học đâu chỉ là an phận.
Thuỷ chung với nghề thật kiên cường, bản lĩnh qua thẩm định tự thân, để không chỉ khi thoái, lui mới quay ra làm thầy, mà ngay khi "tiến" hay "đạt" cũng không bỏ đi, mà vẫn như nhất nghề làm Thầy, để cùng học và trồng người không mệt mỏi...". Và anh đã làm được điều anh muốn.
Học trò theo anh đông, nhất là từ khi có chuyên ngành Lịch sử văn hoá Việt Nam. Mười lăm năm đào tạo, với hơn mươi lứa sinh viên ra trường, học trò anh cũng ngót hai trăm. Anh dạy học trò bằng tri thức, sự uyên bác, bằng phương pháp tư duy.
Anh sẵn sàng bỏ mọi công việc khác cùng học trò đi khảo sát dù xa xôi vất vả khó khăn. Anh chia sẻ với học trò tất cả những gì anh có, từ tri thức, kinh nghiệm đến tiền bạc, tâm tình.
Học anh, vừa dễ lại vừa khó. Anh không có thói quen độc thoại, chỉ đọc cho chép hoặc nói cho nghe, mà phải động não, nghĩ suy, trình bày ý kiến, quan điểm. Thế nên, quãng cuối những năm chín mươi, khi anh mới ở Nga về, có người nói Nguyễn Hải Kế khi giảng bài lại đọc thơ, tự hát hoặc bắt sinh viên hát, rất không nghiêm túc, nhưng thực ra thì anh đang giảng về văn hoá dân gian, về dân ca. Cái mà nay giáo dục đại học nêu cao là cần phát huy tính chủ động của người học thì anh đã áp dụng từ rất lâu rồi.
3. Anh mê sử, mê văn hoá Việt Nam. Dấu chân anh miên man theo thầy Lê, thầy Doãn đi điền dã về Khởi nghĩa Lam Sơn, về công cuộc khẩn hoang vùng duyên hải Bắc Bộ... Đêm qua, 19 tháng 3, Nguyễn Hùng Vĩ - cán bộ giảng dạy Khoa Văn học - thức trắng viết bài thơ khóc anh, nhớ về cái thuở:
"Lối xưa điền dã đâu rồi
Chân trần áo xếch tơi bời đó đây.
Đâu rồi góc núi chân mây
Liêu xiêu bóng bác hao gầy lội ra...
Đêm về cùng ngẫm ngọt ca
Du du thế sự nại hà lão lai".
4. Anh thường nói: mình Hải Kế mà "vô mưu".
Anh có cả biển các hoài bão, ước mơ, tự thân phấn đấu không mệt mỏi để biết thật rộng, hiểu thật sâu, để rồi lại trao truyền cho các thế hệ học trò, cho xã hội.
Anh xuất hiện nhiều trên truyền hình, trên các phương tiện thông tin đại chúng, không phải để nổi tiếng, để danh tiếng, càng không phải vì "thù lao" (bởi thứ này nếu có thì sau mỗi chương trình anh cũng lại cùng học trò tiêu hết ở quán bia thôi, mà có khi còn phải thêm tiền túi), mà là vì anh muốn truyền đi các thông điệp của di sản lịch sử và văn hoá dân tộc đến với đông đảo nhân dân.
Anh hết mình vì cái chung nhưng lại rất "vụng" cho cái riêng, chẳng biết vun vén cho mình, không bao giờ tính toán thiệt hơn. Anh không "tranh" mà chỉ biết nhường.
Thầy Nguyễn Hải Kế tại Lễ khai giảng năm học 2007-2008.
5. Anh đã sống hết mình trong cuộc nhân gian. Là người thầy, anh đã tận tâm với học trò, dù đó là các cô cậu sinh viên mới năm thứ nhất, hay là anh chị nghiên cứu sinh sắp bảo vệ luận án. Là nhà khoa học, anh đã tận lực cho niềm đam mê từ thuở nhỏ, vì mình mà cũng vì xã hội như một thứ "trách nhiệm công dân". Là người bạn, với bất kể lứa tuổi nào, anh luôn là người tận tình, tận nghĩa, chí nghĩa, chí tình.
Sự ra đi đột ngột của anh chỉ sau chưa đầy hai tuần đổ bệnh, tất cả mọi người biết anh, dù là gần gũi thân quen hay mới chỉ đọc sách anh, nghe anh nói, đều bàng hoàng, tiếc thương vô hạn, và bỗng chợt nhận ra: có một khoảng trống như vườn cây sau cơn bão, mà không dễ gì sẽ đến ngay một cơn mưa "đền cây".
Theo soha
Không cấp phép cho nghệ sĩ chống đối! Đó là khẳng định của ông Nguyễn Đăng Chương, Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, khi trả lời PV vào chiều 31/1. Ca sĩ Tuấn Vũ biểu diễn tại Việt Nam. Ảnh: TƯ LIỆU Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch TPHCM có văn bản đề nghị Cục Nghệ thuật Biểu...