Khám phá nội thất pháo PK tự hành ZSU-23-4 VN có
Pháo phòng không tự hành ZSU-23-4 được trang bị radar và khẩu pháo 4 nòng cỡ 23mm có tốc độ bắn rất cao, chuyên đánh mục tiêu bay thấp, cực thấp
Pháo phòng không tự hành ZSU-23-4 hiện là một trong những vũ khí mạnh mẽ nhất của lưới lửa đối không tầm thấp của QĐND Việt Nam. Nó được thiết kế trong giai đoạn 1957-1962, nhà máy Mytishchi (MMZ) sản xuất cho lực lượng vũ trang Liên Xô từ 1964-1982 với số lượng 6.500 khẩu và dành cho cả mục đích xuất khẩu (tới 23 quốc gia sử dụng). Loại pháo này đã chứng minh được khả năng đáng sợ của mình trong cuộc xung đột giữa Quân đội Israel và Syria vào tháng 10/1973. Khi đó, hầu hết số máy bay F-4 Phantom của Israel bị bắn rơi do khẩu đội pháo ZSU-23-4 tấn công.
Tính năng của ZSU-23-4 hầu hết đã được Liên Xô công khai sau nửa thế kỷ được đưa vào sử dụng. Khẩu pháo 4 nòng 23mm 2A7 đạt tốc độ bắn 3.400-4.000 phát/phút, tầm bắn 2-2,5km, được trang bị bộ ổn định toàn phần cho phép xe vừa di chuyển vừa khai hỏa. Vậy, bây giờ hãy cùng Kiến Thức vào thăm bên trong mẫu pháo phòng không tự hành huyền thoại này.
Đầu tiên, hãy vào thăm chỗ ngồi của lái xe pháo tự hành ZSU-23-4. Mặt trước của thân xe thiết kế với phần nắp cửa rất lớn, dù là kích cỡ người phương Tây hay phương Đông thì đều dễ dàng chui vào.
Hệ thống lái đơn giản của ZSU-23-4 với cần đẩy và bàn đạp chân ga, côn, phanh.
Đồng hồ đo tốc độ và các loại chỉ số khác được thiết kế với bảng đặt ở bên trái lái xe.
Lái xe ngồi tách biệt hoàn toàn với hai pháo thủ và chỉ huy xe còn lại ngồi trong tháp pháo.
Cửa ra vào của kíp 3 người còn lại ở trên nóc tháp pháo.
Video đang HOT
Không gian bên trong rất rộng rãi, có thể chứa thêm các đồ dùng cá nhân riêng của kíp chiến đấu.
Bên trong tháp pháo được trang bị khá nhiều thiết bị nút bấm, đồng hồ phục vụ tác chiến vì vốn dĩ ZSU-23-4 ngoài pháo 2A7 còn sở hữu radar dẫn bắn RPK-2 Tobol có khả năng phát hiện mục tiêu máy bay trong phạm vi 20km.
Cận cảnh bộ điều khiển pháo 23mm 2A7.
Thiết bị bắn nhìn như tay cầm chơi game.
Cận cảnh 4 nòng pháo 23mm 2A7 có tốc độ bắn mỗi nòng 850-1.000 phát/phút, tổng hợp 4 nòng là 3.400-4.000 phát/phút.
Không gian bên trong rất rộng rãi.
Không gian đằng sau tháp pháo thoải mái để đồ cá nhân dành cho kíp bắn.
Theo_Kiến Thức
Tường tận xe tăng hạng nặng của Mỹ trong CTTG 2
Trong chiến tranh thế giới thứ 2, người Mỹ cũng cố gắng phát triển xe tăng hạng nặng nhưng hầu như chúng không đạt được tiếng tăm như KV-1 hay Tiger.
Nhắc tới xe tăng hạng nặng trong Chiến tranh Thế giới thứ, người ta có lẽ ngay lập tức nghĩ tới các thiết kế huyền thoại KV-1, IS-2 của Liên Xô hay Tiger I/II của Đức. Thực tế, người Mỹ cũng nỗ lực tạo ra đội hình xe tăng hạng nặng của riêng họ nhưng hầu như chúng không có được tiếng tăm như sản phẩm Đức hay Liên Xô. Xe tăng hạng nặng M6 được phát triển giai đoạn đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2, tuy nhiên chỉ có tổng cộng 40 chiếc ra đời và không bao giờ xuất hiện trên chiến trường. Mẫu tăng này nặng tới 57,4 tấn, dài 8,43m, kíp lái 6 người, giáp dày 25-83mm, trang bị khẩu pháo chính 76,2mm M7. Xe tăng hạng nặng T14 được phát triển với sự phối hợp giữa Mỹ và Vương quốc Anh. Chiếc xe tăng nặng 41 tấn này phát triển trên cơ sở khung gầm xe tăng hạng trung M4 Sherman nhưng có lớp giáp dày tới 133mm, trang bị khẩu pháo OF 6 57mm của Anh hoặc 75mm M3 của Mỹ. Xe tăng hạng nặng T29 được công ty xe bọc thép Pressed và Detroit Arsenal hợp tác phát triển từ tháng 3/1944 nhằm đối trọi với mẫu tăng Tiger I/II của Đức phát xít. Tuy nhiên, cũng như M6, T14, T29 không bao giờ được sản xuất hàng loạt hay tham chiến. Ảnh: xe tăng hạng nặng T29 tại Bảo tàng tướng Patton. Xe tăng T29 được chế tạo trên cơ sở khung gầm thiết kế tăng hạng nặng T26E3 được kéo dài thân và bổ sung thêm giáp. Mẫu tăng có trọng lượng lên tới 64 tấn khi chiến đấu, giáp tháp pháo dày tới 249mm trong khi giáp thân là 102mm. Cỗ tăng vũ trang khẩu pháo 105mm T5E2 với cơ số đạn 63 viên. Vì là tăng hạng nặng nên đương nhiên T29 khá chậm chạp, tốc độ tối đa chỉ đạt 35km/h, tầm hoạt động 160km. Trên cơ sở T29, nhà sản xuất còn cố gắng tạo ra biến thể T34 với nòng pháo chính 120mm T53 đủ sức công phá mọi loại tăng mạnh nhất của Đức phát xít. Dẫu vậy, thế hệ T34 tất nhien đã chết cùng T29. Xe tăng hạng nặng T30 được phát triển giai đoạn cuối năm 1944 cũng nhằm đối phó lại xe tăng Đức Tiger I, Tiger II và mục tiêu xa hơn là dòng tăng IS của Liên Xô. Tất nhiên, dự án cũng chẳng đi tới đâu. T30 nặng tới 64,7 tấn, dài 10,9m, kíp lái cần đến 6 người. Cỗ tăng này được bọc giáp thân dày 100mm trong khi giáp tháp pháo lên tới 280mm. T30 được xem là cỗ tăng trang bị khẩu pháo lớn nhất lịch sử phát triển xe tăng Mỹ, nòng 155mm L/40 T7 với 34 viên đạn xuyên giáp và số lượng nhỏ đạn nổ phá mảnh. Siêu tăng hạng nặng T28 (ban đầu được định danh là T95) có lẽ là cỗ tăng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ với trọng lượng lên tới 95 tấn, được hãng Pacific Card & Foundry phát triển đáp ứng yêu cầu từ Quân đội Mỹ cần một cỗ tăng cho cuộc đổ bộ vào Nhật Bản nếu cần. Dù được xếp hàng xe tăng hạng nặng nhưng kiểu dáng của T28 nhìn giống như thiết kế pháo tự hành chống tăng thời bấy giờ. Khối lượng của xe tăng hạng siêu nặng T28 lên đến 86 tấn, kích thước dài 11,10m, rộng 4,39m và cao đến 2,84m. Lớp giáp của xe ở hai bên sườn là 64mm, nhưng lên đến 300mm ở những vị trí xung yếu, cho phép chống lại các đạn xuyên giáp 88mm của phát xít Đức. Vũ khí chính của xe tăng T28 là pháo T5E1 cỡ 105mm, cơ số đạn 62 viên. Đạn pháo có sơ tốc đầu 1.130m/s, và tầm bắn lên đến 19km. Tháp pháo của T28 sử dụng loại tháp pháo của xe tăng T23 để tiết kiệm chi phí. Vũ khí phụ là súng máy hạng nặng Browning M2 cỡ 12,7mm. Kíp lái gồm 4 người. Dù có lớp giáp "vô đối" và cỗ pháo mạnh khủng khiếp nhưng T28 gặp phải bất lợi vô cùng đó là tốc độ "chậm hơn rùa". Thời điểm đó, người Mỹ chỉ có thể trang bị cho nó động cơ xăng 500 mã lực, khó có thể giúp di chuyển cả khối sắt tháp lớn như vậy được. Chính vì vậy, dự án siêu tăng T28 rốt cuộc cũng bị hủy bỏ. Hầu như mọi dự án xe tăng hạng nặng của Mỹ đều đi vào ngõ cụt, duy chỉ có thiết kế M26 Pershing là đạt được thành công. M26 Pershing được nhà máy tank Detroit và Fisher hợp tác phát triển cuối CTTG 2 và chính thức sản xuất từ 1944-1945 với số lượng 2.200 chiếc. Xe tăng hạng nặng M26 Pershing nặng 46 tấn, giáp thân dày 102mm, giáp tháp pháo 76mm, trang bị pháo chính 90mm M3 với 70 viên đạn. Cỗ tăng này xuất hiện trong giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2 khi mà mọi thứ đã ngã ngũ. Dẫu cho không mang lại tiếng vang nào, nhưng M26 Pershing vẫn ghi được dấu ấn khi chứng minh khả năng "knok out" Tiger I trong một số trận đánh.
Nhắc tới xe tăng hạng nặng trong Chiến tranh Thế giới thứ, người ta có lẽ ngay lập tức nghĩ tới các thiết kế huyền thoại KV-1, IS-2 của Liên Xô hay Tiger I/II của Đức. Thực tế, người Mỹ cũng nỗ lực tạo ra đội hình xe tăng hạng nặng của riêng họ nhưng hầu như chúng không có được tiếng tăm như sản phẩm Đức hay Liên Xô.
Xe tăng hạng nặng M6 được phát triển giai đoạn đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2, tuy nhiên chỉ có tổng cộng 40 chiếc ra đời và không bao giờ xuất hiện trên chiến trường. Mẫu tăng này nặng tới 57,4 tấn, dài 8,43m, kíp lái 6 người, giáp dày 25-83mm, trang bị khẩu pháo chính 76,2mm M7.
Xe tăng hạng nặng T14 được phát triển với sự phối hợp giữa Mỹ và Vương quốc Anh. Chiếc xe tăng nặng 41 tấn này phát triển trên cơ sở khung gầm xe tăng hạng trung M4 Sherman nhưng có lớp giáp dày tới 133mm, trang bị khẩu pháo OF 6 57mm của Anh hoặc 75mm M3 của Mỹ.
Xe tăng hạng nặng T29 được công ty xe bọc thép Pressed và Detroit Arsenal hợp tác phát triển từ tháng 3/1944 nhằm đối trọi với mẫu tăng Tiger I/II của Đức phát xít. Tuy nhiên, cũng như M6, T14, T29 không bao giờ được sản xuất hàng loạt hay tham chiến. Ảnh: xe tăng hạng nặng T29 tại Bảo tàng tướng Patton.
Xe tăng T29 được chế tạo trên cơ sở khung gầm thiết kế tăng hạng nặng T26E3 được kéo dài thân và bổ sung thêm giáp. Mẫu tăng có trọng lượng lên tới 64 tấn khi chiến đấu, giáp tháp pháo dày tới 249mm trong khi giáp thân là 102mm. Cỗ tăng vũ trang khẩu pháo 105mm T5E2 với cơ số đạn 63 viên. Vì là tăng hạng nặng nên đương nhiên T29 khá chậm chạp, tốc độ tối đa chỉ đạt 35km/h, tầm hoạt động 160km.
Trên cơ sở T29, nhà sản xuất còn cố gắng tạo ra biến thể T34 với nòng pháo chính 120mm T53 đủ sức công phá mọi loại tăng mạnh nhất của Đức phát xít. Dẫu vậy, thế hệ T34 tất nhien đã chết cùng T29.
Xe tăng hạng nặng T30 được phát triển giai đoạn cuối năm 1944 cũng nhằm đối phó lại xe tăng Đức Tiger I, Tiger II và mục tiêu xa hơn là dòng tăng IS của Liên Xô. Tất nhiên, dự án cũng chẳng đi tới đâu.
T30 nặng tới 64,7 tấn, dài 10,9m, kíp lái cần đến 6 người. Cỗ tăng này được bọc giáp thân dày 100mm trong khi giáp tháp pháo lên tới 280mm. T30 được xem là cỗ tăng trang bị khẩu pháo lớn nhất lịch sử phát triển xe tăng Mỹ, nòng 155mm L/40 T7 với 34 viên đạn xuyên giáp và số lượng nhỏ đạn nổ phá mảnh.
Siêu tăng hạng nặng T28 (ban đầu được định danh là T95) có lẽ là cỗ tăng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ với trọng lượng lên tới 95 tấn, được hãng Pacific Card & Foundry phát triển đáp ứng yêu cầu từ Quân đội Mỹ cần một cỗ tăng cho cuộc đổ bộ vào Nhật Bản nếu cần. Dù được xếp hàng xe tăng hạng nặng nhưng kiểu dáng của T28 nhìn giống như thiết kế pháo tự hành chống tăng thời bấy giờ.
Khối lượng của xe tăng hạng siêu nặng T28 lên đến 86 tấn, kích thước dài 11,10m, rộng 4,39m và cao đến 2,84m. Lớp giáp của xe ở hai bên sườn là 64mm, nhưng lên đến 300mm ở những vị trí xung yếu, cho phép chống lại các đạn xuyên giáp 88mm của phát xít Đức.
Vũ khí chính của xe tăng T28 là pháo T5E1 cỡ 105mm, cơ số đạn 62 viên. Đạn pháo có sơ tốc đầu 1.130m/s, và tầm bắn lên đến 19km. Tháp pháo của T28 sử dụng loại tháp pháo của xe tăng T23 để tiết kiệm chi phí. Vũ khí phụ là súng máy hạng nặng Browning M2 cỡ 12,7mm. Kíp lái gồm 4 người.
Dù có lớp giáp "vô đối" và cỗ pháo mạnh khủng khiếp nhưng T28 gặp phải bất lợi vô cùng đó là tốc độ "chậm hơn rùa". Thời điểm đó, người Mỹ chỉ có thể trang bị cho nó động cơ xăng 500 mã lực, khó có thể giúp di chuyển cả khối sắt tháp lớn như vậy được. Chính vì vậy, dự án siêu tăng T28 rốt cuộc cũng bị hủy bỏ.
Hầu như mọi dự án xe tăng hạng nặng của Mỹ đều đi vào ngõ cụt, duy chỉ có thiết kế M26 Pershing là đạt được thành công. M26 Pershing được nhà máy tank Detroit và Fisher hợp tác phát triển cuối CTTG 2 và chính thức sản xuất từ 1944-1945 với số lượng 2.200 chiếc.
Xe tăng hạng nặng M26 Pershing nặng 46 tấn, giáp thân dày 102mm, giáp tháp pháo 76mm, trang bị pháo chính 90mm M3 với 70 viên đạn. Cỗ tăng này xuất hiện trong giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2 khi mà mọi thứ đã ngã ngũ. Dẫu cho không mang lại tiếng vang nào, nhưng M26 Pershing vẫn ghi được dấu ấn khi chứng minh khả năng "knok out" Tiger I trong một số trận đánh.
Theo_Kiến Thức
Trực thăng cứu hộ Mỹ cũng được lắp súng khủng Các phi đội trực thăng cứu hộ HH-60G Pave Hawk của Không quân Mỹ sắp được trang bị mẫu súng máy hạng nặng GAU-21 rất mạnh. Các phi đội trực thăng cứu hộ HH-60G Pave Hawk của Không quân Mỹ sắp được trang bị mẫu súng máy hạng nặng GAU-21 rất mạnh. Theo Air Recognition, vào đầu tháng 1 năm nay Không quân...