Kết nối tiêu thụ nông sản, đặc sản phục vụ Tết Nhâm Dần
Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu các mặt hàng nông sản trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới là mong muốn của các địa phương tại “Diễn đàn trực tuyến kết nối cung cầu nông sản, thực phẩm dịp Tết Nguyên đán” do Bộ NN&PTNT phối hợp với UBND của nhiều tỉnh, thành phố tổ chức.
Theo nhận định, thị trường trong nước có dư địa tiêu dùng rất lớn trong dịp Tết Nguyên đán, trong khi các địa phương đã tập trung sản xuất những loại đặc sản ngon nhất, độc đáo nhất để chuẩn bị bung hàng ra bán trong dịp Tết…
Các món đặc sản Tây Bắc được bày bán tại Hội chợ “Vị Tết xưa”.
Ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) cho biết, nhu cầu thực phẩm dịp Tết Nguyên đán trung bình tăng từ 15-20% tùy từng sản phẩm. Thị trường trong nước có dư địa rất lớn trong dịp Tết Nguyên đán, tạo nhiều cơ hội cho các đơn vị có thể quảng bá, tiêu thụ sản phẩm với giá thành tốt nhất. Do đó, các địa phương nên có phương án chủ động kết nối, thông tin rộng rãi để công tác tiêu thụ đạt được giá trị cao nhất.
Theo ông Huỳnh Sỹ Liêm, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Kon Tum, với lợi thế hai vùng khí hậu đặc thù, Kon Tum phát triển mạnh về nông sản nhiệt đới như cà phê, sắn, lúa; các loại dược liệu quý như sâm Ngọc Linh, sâm dây (Đảng sâm)… Kom Tum có 62.000 tấn cà phê, diện tích cây ăn quả đạt 6.500 ha gồm bưởi, cam, quýt, chuối, sầu riêng, sâm Ngọc Linh đạt khoảng 1.240 ha, Đảng sâm và các loại dược liệu khác đạt khoảng 2.600 ha. Địa phương mong muốn trong thời gian tới tỉnh sẽ nhận được thêm sự quan tâm, kết nối, đồng hành tiêu thụ nông sản từ các doanh nghiệp, nhà kinh doanh.
Theo ông Lê Quốc Điền, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp, tỉnh đã chuẩn bị nhiều loại hoa quả như xoài, quýt, nhãn, mít, chanh cho dịp Tết. Cụ thể, tỉnh đã rải vụ và dự kiến tổng sản lượng hoa quả trong các tháng 1/2022 và 2/2022 lần lượt là khoảng 22.000 tấn, và 35.000 tấn. Bên cạnh hoa quả, Đồng Tháp còn chuẩn bị nhiều loại rau, củ, với sản lượng hiện hơn 3.000 tấn.
Ông Nguyễn Văn Mấy, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Tây Ninh chia sẻ, hiện tỉnh đang tìm đầu ra cho một số sản phẩm OCOP, sản phẩm chủ lực có thế mạnh của tỉnh trong dịp Tết nguyên đán sắp tới. Với nhóm sản phẩm trái cây, Tây Ninh hiện đang có 500 tấn mít Thái siêu sớm, 3.000 tấn chuối Nam Mỹ, gần 300 tấn mãng cầu na, 100 tấn dưa lưới, 80 tấn bưởi da xanh… các sản phẩm đều đạt tiêu chuẩn VietGAP. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tây Ninh mong muốn đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu các mặt hàng nông sản, đồng thời hỗ trợ các hợp tác xã, doanh nghiệp quảng bá, giao thương trực tiếp với các hệ thống phân phối, siêu thị trên cả nước, qua đó đáp ứng nhu cầu thị trường vào dịp cuối năm, Tết nguyên đán Nhâm Dần.
Lúng túng làm nông nghiệp hữu cơ: Nông dân không thể "nhịn đói" theo đuổi tình yêu hữu cơ
Dù đã có những bước tiến nhất định song tốc độ phát triển nông nghiệp hữu cơ còn chậm, sản xuất hữu cơ gặp nhiều lúng túng.
Từ các đơn vị trực tiếp sản xuất nông nghiệp hữu cơ đến cơ quan chức năng đều cho rằng, cần phải có cuộc thay đổi mạnh mẽ hơn.
Cả nước hiện có 46/63 tỉnh thành đang sản xuất hữu cơ; có trên 17.000 nông dân tham gia sản xuất hữu cơ, và 97 doanh nghiệp sản xuất hữu cơ. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam đã xuất khẩu sang 180 nước.
Tại sao phát triển nông nghiệp hữu cơ còn chậm?
Video đang HOT
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT), diện tích canh tác hữu cơ của Việt Nam vào năm 2016 đã tăng từ hơn 50.000ha lên đến gần 240.000ha vào năm 2020.
Ông Trần Thế Hiệp - Phó Tổng giám Công ty TNHH Công nghệ NhoNho, một đơn vị thực hiện chứng nhận hữu cơ đánh giá, tốc độ phát triển này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Theo ông Hiệp, nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu, hướng đến cung cấp sản phẩm sạch và an toàn; và nhu cầu với sản phẩm nông nghiệp hữu cơ cũng rất lớn.
Tuy nhiên, trăn trở lớn nhất hiện nay là sản xuất hữu cơ trong nước chưa phát triển mạnh, mặc dù đã có nghị định về phát triển nông nghiệp hữu cơ, và bộ tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam.
Anh Phạm Quang Chung, một nông dân tâm huyết theo đuổi mô hình trồng tiêu hữu cơ ở huyện Lộc Ninh, Bình Phước. Ảnh: Nguyên Vỹ
Ông Hiệp cho rằng, việc người sản xuất phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cũng như toàn bộ quy trình đánh giá chứng nhận nông nghiệp hữu cơ là không hề đơn giản.
Các hộ sản xuất phải thực hiện rất nhiều hoạt động mà khó khăn nhất là chứng minh được điều kiện sản xuất từ môi trường đất, môi trường nước đáp ứng được tiêu chuẩn.
Nếu chưa đáp ứng được tiêu chuẩn, người sản xuất phải thực hiện giai đoạn chuyển đổi cho vùng sản xuất. Và sau khi được cấp giấy chứng nhận hữu cơ, hàng năm, đơn vị cấp chứng nhận phải đánh giá lại để xem xét đơn vị sản xuất có tuân thủ đầy đủ hay không.
Nhìn chung, ông Hiệp cho biết, quá trình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp không an toàn và sản xuất nông nghiệp an toàn và hữu cơ gặp rất nhiều thách thức; thậm chí, người muốn làm nông nghiệp hữu cơ phải chịu tổn thất rất nhiều.
Nguyên nhân là phần lớn quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ; diện tích hạn chế; sản lượng ít, thiếu cạnh tranh. Trong khi đó làm nông nghiệp hữu cơ phải bỏ ra tiền lớn để đầu tư hạ tầng, công nghệ và đăng ký chứng nhận.
Nhận thức của người tiêu dùng về nông nghiệp hữu cơ cũng là một vấn đề vì họ chưa hình dung rõ ràng giữa sản phẩm an toàn với sản phẩm hữu cơ. "Trong khi giá bán sản phẩm hữu cơ không hề rẻ", ông Hiệp nói.
Ông Lâm Thái Xuyên - Giám đốc Doanh nghiệp xã hội Minh Phú (thuộc Tập đoàn Thủy Sản Minh Phú) kể, doanh nghiệp đang thực hiện chuỗi liên kết nuôi tôm sinh thái dưới tán rừng Cà Mau, với 2.010 hộ dân trên diện tích 9.722ha.
Mục tiêu của doanh nghiệp sẽ phát triển diện tích nuôi tôm hữu cơ lên 20.000ha; diện tích lúa - tôm hữu cơ 30.000ha. Tuy nhiên, công tác quy hoạch canh tác hữu cơ trong dài hạn còn gây cản trở cho doanh nghiệp.
Sản phẩm gạo hữu cơ của tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Nguyên Vỹ
Ông Nguyễn Hoàng Cung - Giám đốc Công ty TNHH Nông sản sạch Đại Thuận Thiên thì cho rằng "tảng băng chìm" gây cản trở sản xuất hữu cơ nằm ở vùng sản xuất.
Việt Nam có chính sách rõ ràng về phát triển nông nghiệp hữu cơ. Chính sách đi theo ngành dọc từ Bộ NNPTNT, xuống tới Sở NNPTNT, xuống tới huyện thì thông suốt.
"Thế nhưng xuống đến ấp, xã và từng hộ dân thì ách tắc. Doanh nghiệp muốn phát triển nông nghiệp hữu cơ vì lợi ích chung nhưng gặp nhiều hạn chế", ông Cung nói.
Vấn đề lớn nhất của nông nghiệp hữu cơ là thị trường
Theo ông Hiệp, sản xuất hữu cơ trong nước gặp nhiều khó khăn còn do các nước đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe về nông nghiệp hữu cơ. Các tiêu chuẩn này tạo thành rào cản khi người sản xuất hữu cơ muốn tiếp cận với thị trường từng nước.
Muốn xuất khẩu sản phẩm hữu cơ sang Mỹ phải đáp ứng tiêu chuẩn hữu cơ của Mỹ, muốn xuất khẩu sang Nhật thì đáp ứng tiêu chuẩn của Nhật. "Và các tiêu chuẩn hiện nay chưa có sự thống nhất chung trên toàn cầu", ông Hiệp phân tích.
Ông Lầu Sỹ Nịp giới thiệu mô hình trồng bưởi theo hướng hữu cơ ở huyện Phú Riềng, Bình Phước. Ảnh: Nguyên Vỹ
Bà Vũ Lê Y Voan, cố vấn Chương trình hỗ trợ rừng và trang trại của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) cho rằng, nông nghiệp hữu cơ không chỉ là sản phẩm, mà là phong cách sống, là cách tương tác của con người với thiên nhiên.
Đồng Tháp: Lão nông trồng lúa, "thuận thiên" từ mô hình canh tác hữu cơ
Việt Nam đã có chính sách chung thì các địa phương phải xác định rõ nguồn lực, sản phẩm thế mạnh để phát triển. Bởi vì nông nghiệp hữu cơ phát triển nhờ hệ sinh thái, đa dạng sinh học và nguồn lực con người ở chính địa phương đó.
Nghĩa là cần có chương trình nông nghiệp hữu cơ cụ thể cho từng tỉnh, từng huyện tới từng xã. Khi lãnh đạo địa phương biết dấy lên phong trào thì "nguồn lực mềm" này sẽ huy động được rất nhiều đóng góp và tâm huyết từ người dân, doanh nghiệp.
"Phải làm sao để mọi người hiểu về nông nghiệp hữu cơ nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm hữu cơ nhiều hơn và giá rẻ hơn", bà Voan nói.
Ông Hoàng Sĩ Thính, đến từ Học viện Nông nghiệp Việt Nam đồng ý với quan điểm của bà Voan. Tuy nhiên, ông Thính cho rằng, cần giải quyết cân đối tính ngắn hạn và dài hạn trong sản xuất hữu cơ.
Khách hàng lựa mua sản phẩm hữu cơ ở siêu thị SaigonCo.op, TP.HCM. Ảnh: Nguyên Vỹ
Theo ông Thính, nông dân đang trăn trở trực tiếp với thu nhập và nhu cầu sống trước mắt. Trong khi nông nghiệp hữu cơ là cách sống, mà cách sống thì dài hạn. "Nông dân không thể nhịn đói để theo đuổi tình yêu dài hạn", ông Thính nói.
Thị trường đầu ra của nông nghiệp hữu cơ là một trong những khó khăn lớn nhất, nằm trong nhóm vấn đề ngắn hạn. Vì thế, ông Thính đề nghị Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần vào cuộc để hỗ trợ, giải quyết những khó khăn ngắn hạn cho người tâm huyết với NNHC.
Ông Lê Thanh Tùng - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt đánh giá, thực trạng sản xuất NNHC trong nước còn nhiều ngổn ngang, từ vấn đề sắp xếp tổ chức sản, hệ thống cứng nhận cho tới khâu phân phối ra thị trường.
Theo ông Tùng, nông nghiệp hữu cơ không chỉ dừng lại ở giá trị sản phẩm mà còn phải là câu chuyện văn hóa và tình người. Mỗi sản phẩm nông nghiệp hữu cơ phải là một câu chuyện đẹp để có cách tiếp cận thân thiện hơn.
"Cha đẻ" gạo ngon nhất thế giới ST25 gửi đơn kêu cứu, ngành chức năng khuyến cáo "nóng" điều gì? Ngay sau khi "cha đẻ" gạo ngon nhất thế giới ST25 gửi đơn kêu cứu đề nghị hỗ trợ bảo vệ thương hiệu giống lúa và gạo ST24, ST25 tại thị trường Việt Nam, ngành chức năng đã có ngay khuyến cáo. Tại sao "cha đẻ" gạo ngon nhất thế giới ST25 gửi đơn kêu cứu? Gia đình ông Hồ Quang Cua -...