Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc
Hạm đội mạnh nhất Trung Quốc đã bị hải quân Nhật Bản hủy diệt trong trận Hoàng Hải.
Ở kỳ trước, chúng ta biết rằng đế quốc Nhật Bản cuối thế kỷ 19 đang vươn lên mạnh mẽ và khát khao xâm chiếm thuộc địa. Để thực hiện mộng xâm lược của mình, Nhật Bản phải đối mặt với hạm đội được cho là mạnh nhất châu Á thời bấy giờ của Trung Quốc. Thế nhưng, hạm đội đó đã bị mục ruỗng từ bên trong, và nó đã bị hủy diệt trong một trận hải chiến diễn ra trên biển Hoàng Hải.
Ngày 17/9/1894, trận hải chiến giữa 2 hạm đội hùng hậu của nhà Thanh và Nhật Bản diễn ra trên biển Hoàng Hải. Trận hải chiến này còn được gọi là trận sông Áp Lục vì nó xảy ra ở gần cửa sông Áp Lục đổ ra biển Hoàng Hải, nơi giáp ranh giữa Triều Tiên và Trung Quốc.
Trong trận chiến này, hầu hết các tàu chiến chủ lực của cả hai hạm đội đều được tung vào trận, và Hạm đội Nhật Bản mới được tái thiết của Đô đốc Sukeyuki Ito đã chặn đứng được cuộc đổ bộ của lục quân Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của Hạm đội Bắc Dương dưới sự chỉ huy của Đô đốc Đinh Nhữ Xương.
Quan đại thần Lý Hồng Chương và Đô đốc Đinh Nhữ Xương, hai “trụ cột” của Hạm đội Bắc Dương
Trước khi trận chiến xảy ra, Hạm đội Bắc Dương đã có những nỗ lực cuối cùng để sửa chữa lại các chiến hạm, đảm bảo khả năng chiến đấu cao nhất. Đô đốc Đinh Nhữ Xương nhận được sự cố vấn của một số sĩ quan hải quân nước ngoài giàu kinh nghiệm, chẳng hạn như viên đại tá người Đức von Hanneken hoặc một số sỹ quan người Anh đang là giảng viên tại Học viện Hải quân Uy Hải Vệ.
Trong khi đó, người Nhật rất tự tin vào khả năng của mình, nên không sử dụng cố vấn nước ngoài.
Phía Trung Quốc, Đô đốc Đinh Nhữ Xương chia hạm đội theo thế trận “nhạn bay hai cánh” với 2 hải đội chia thành hai cánh cung sẵn sàng nghênh địch. Trong thế trận này, hải đội thứ nhất tập trung chủ yếu những tàu xương sống của Hạm đội Bắc Dương gồm 2 thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn nằm ở trung tâm đội hình chiến đấu.
Bảo vệ cho các thiết giáp hạm này là các tuần dương hạm Dương Uy, Siêu Dũng, Bình Viễn, Tĩnh Viễn, Lai Viễn, Chí Viễn được trang bị nhiều loại pháo có cỡ nòng khác nhau. Đây là một lực lượng rất mạnh gồm tổng cộng có 14 tàu chiến, trong đó có hai tàu phóng lôi cỡ nhỏ.
Tranh vẽ trận Hoàng Hải 1894.
Về phía Nhật Bản, Đô đốc Sukeyuki Ito cho hạm đội triển khai theo đội hình hai hàng dọc, trong đó tàu tuần dương Matsushima đóng vai trò là kỳ hạm ở trung tâm của đội hình.
Đi theo bảo vệ cho kỳ hạm Matsushima là 2 chiến hạm cỡ nhỏ Sei-kyo do thuyền trưởng người Anh John Wilson chỉ huy và pháo hạm Akagi. Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản, Đô đốc Kabayama Sukenori có mặt trên chiếc Sei-kyo. Lực lượng này tiến lên ở cánh trái đội hình.
Lực lượng chính của Hạm đội Nhật Bản bao gồm các tuần dương hạm Chiyoda, Hashidate, Itsukushima, Fuso, còn chiếc Hiei được trang bị 9 khẩu pháo 152mm lùi xuống ở trung tâm đội hình.
Dẫn đầu đội hình tiến công của Nhật Bản ở cánh phải là một hải đội xung kích có tốc độ cao, bao gồm các tuần dương hạm Yoshino, Akitsushima, Takachiho và Naniwa. Đây là những tàu có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, là lực lượng then chốt quyết định trận đánh. Đội hình Hạm đội Nhật Bản như một chữ U lớn, hướng về phía Hạm đội Bắc Dương.
Bước vào trận đánh, Đô đốc Sukeyuki Ito biết rằng nếu đấu tay đôi với các thiết giáp hạm hiện đại có hỏa lực mạnh của hải quân nhà Thanh, quân Nhật sẽ gánh chịu thất bại nặng nề. Thế nên ông quyết định chọn cách sử dụng lực lượng xung kích với ưu thế về tốc độ cao để đánh vỗ mặt các tàu chiến cỡ nhỏ của Hạm đội Bắc Dương, sau đó áp sát phát huy tối đa sức mạnh hỏa lực để giải quyết trận đánh.
Video đang HOT
Vì hạm đội Nhật tiến theo đội hình hai hàng dọc nên các khẩu pháo 305mm có tầm bắn xa 7,8km của thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn gần như không thể bắn trúng tàu chiến Nhật Bản vì vướng những tàu nhỏ hơn ở phía trước.
Trong khi đó, từ cánh phải, hải đội xung kích của Nhật Bản đã bắt đầu khai hỏa, bắn các tàu chiến nhỏ hơn của đối phương. Trong khi hải đội xung kích lợi dụng ưu thế về tốc độ liên tục di chuyển để đánh vào bên sườn của Hạm đội Bắc Dương, hải đội chính của quân Nhật bất ngờ tiến vào đánh vỗ mặt, buộc quân Thanh phải chật vật chống đỡ trên cả hai phía. Loạt đạn đầu tiên của hải quân Nhật bắn vào kỳ hạm Định Viễn đã khiến Đô đốc Đinh Nhữ Xương bị thương.
Tàu chiến Nhật Bản tiến đến đánh vỗ mặt Hạm đội Bắc Dương
Sau khi đã áp sát ở cự li đủ để phát huy tối đa hỏa lực hạm tàu, tàu chiến Nhật Bản liên tục di chuyển theo vòng tròn, quây Hạm đội Bắc Dương vào giữa để tiêu diệt. Hạm đội Bắc Dương đã rơi vào cái bẫy của người Nhật Bản.
Tuy nhiên, theo đánh giá sau này thì chiếc bẫy này không hẳn là không có cách phá vỡ. Nếu như Hạm đội Bắc Dương có chiến thuật đúng đắn để triển khai đội hình, đưa các thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn lên tuyến đầu để khai hỏa trực tiếp vào hải đội xung kích của Nhật Bản, sử dụng ưu thế tầm bắn để ra đòn phủ đầu thì họ đã có thể giành được ưu thế, không đánh mất hoàn toàn quyền chủ động vào tay người Nhật Bản.
Nhưng không rõ vì lí do gì mà những mệnh lệnh này đã không được đưa ra, dù cho các sĩ quan nước ngoài cố vấn cho Hạm đội Bắc Dương có mặt trong trận chiến cũng đã sớm nhận ra điều này. Có một số ý kiến cho rằng thuyền trưởng tàu Định Viễn đã hèn nhát, chống lại thượng lệnh của Đô đốc Đinh Nhữ Xương.
Ngoài ra, nguyên nhân thất bại của Hạm đội Bắc Dương chủ yếu nằm ở trang bị quá tồi tệ do nạn tham nhũng hoành hành. Nhiều chiến hạm của Nhật đã bị trúng đạn pháo, thậm chí bị bắn trúng nhiều hơn tàu Trung Quốc. Nhưng những viên đạn pháo nhồi xi măng, mạt cưa thay cho thuốc súng hầu như chẳng gây thiệt hại gì cho quân Nhật.
Tranh vẽ kỳ hạm Matsushima tấn công tàu chiến Hạm đội Bắc Dương.
Theo các tài liệu lịch sử, tuần dương hạm Bình Viễn đã bắn nhiều phát trúng vào tàu Matsushima của Nhật Bản, nhưng hầu như các quả đạn đã bị “rút ruột” nên không gây thiệt hại. Những khẩu pháo 305mm và 208mm bất lực trước hạm đội Nhật Bản, khiến các tàu Nhật thoải mái cơ động, chờ cho các tàu Trung Quốc bắn hết đạn để tiến vào áp sát ở cự li 2.700m, khai hỏa đáp trả.
Mục tiêu đầu tiên là 2 tuần dương hạm loại nhỏ Dương Uy và Siêu Dũng của Hạm đội Bắc Dương. Cả hai chiếc đều bốc cháy dữ dội ngay sau loạt đạn đầu. Các tàu Nhật Bản cơ động liên tục, bắn gãy cột cờ tín hiệu của kỳ hạm Định Viễn, khiến Hạm đội Bắc Dương mất khả năng chỉ huy thống nhất. Để đối phó lại, hạm đội Trung Quốc cũng chia thành ba cặp đôi tàu, để chiến đấu độc lập, chi viện cho nhau.
Trận chiến kéo dài suốt cả ngày, và kết thúc với phần thắng thuộc về người Nhật Bản. Hạm đội Bắc Dương bị bắn chìm 5 tàu, bị thương 3 tàu, 850 thủy thủ thiệt mạng, 500 người bị thương. Trong khi đó, Hạm đội Nhật Bản chỉ bị hỏng 4 tàu, 190 thủy thủ thiệt mạng, 200 người bị thương.
Trận Hải chiến Hoàng Hải đã mở đường cho sự vươn lên của Hạm đội Nhật Bản, sánh vai cùng hải quân các cường quốc châu Âu cũng như khẳng định vị trí siêu cường của Nhật Bản trên trường quốc tế.
Về phần Hạm đội Bắc Dương, sau trận Hoàng Hải, lực lượng này còn đọ sức với Nhật Bản một lần nữa trong trận Uy Hải Vệ tháng 2/1985 và một lần nữa bị diệt gọn. Đội tàu phóng lôi của Nhật Bản đã đánh chìm kỳ hạm Định Viễn cùng 3 tàu lớn khác của Hạm đội Bắc Dương, 13 tàu phóng lôi còn sống sót cố chạy đến Yên Đài thì 6 chiếc bị tiêu diệt và 7 chiếc bị bắt giữ. Ngày 12/2/1895, Đô đốc Đinh Nhữ Xương và các tàu còn lại thuộc Hạm đội Bắc Dương đã đầu hàng quân Nhật vô điều kiện.
Đô đốc Đinh Nhữ Xương đầu hàng Đô đốc Nhật Bản Sukeyuki Ito sau trận Uy Hải Vệ
Sau này, tờ Quân Giải phóng của quân đội Trung Quốc bình luận về trận hải chiến Hoàng Hải đã kêu gọi chỉ huy các đơn vị cần rút ra bài học từ chiến thắng năm 1894 của Nhật Bản trước nhà Thanh, một bài bình luận được coi là ám chỉ nạn tham nhũng lan tràn trong giới tướng lĩnh quân đội hiện nay.
Phân tích nguyên nhân thất bại của trận hải chiến này, Quân Giải phóng nhận định: “Hải quân Trung Quốc được trang bị các tàu chiến tiên tiến cùng vũ khí đã được sử dụng bởi các lực lượng hàng hải Minh Trị Nhật Bản, nhưng các thủy thủ và sĩ quan Trung Quốc đã chỉ biết chế giễu sỹ quan hướng dẫn người nước ngoài được trả lương cao, một sự tương phản nổi bật với thái độ học tập nghiêm túc và khiêm tốn của hải quân Nhật Bản.”
Các nhà phân tích cho nhận định bài bình luận trên của Quân Giải phóng nhằm ám chỉ tới một thực tế rằng quân đội Trung Quốc thời nhà Thanh phải đối mặt với nhiều thách thức tương tự quân đội Trung Quốc bây giờ, đó là nạn gia đình trị, bè phái và tham nhũng.
Ông Nghê Lạc Hùng, một nhà phân tích quân sự từ đại học Khoa học chính trị – luật Thượng Hải phân tích: “Vấn nạn tham nhũng hiện nay trong quân đội Trung Quốc thậm chí còn tồi tệ hơn hạm đội Bắc Dương thời nhà Thanh. Nếu hiện tượng mua bán quân hàm còn tiếp diễn, quân đội Trung Quốc chắc chắn sẽ bị Nhật Bản đánh bại một lần nữa nếu có xung đột quân sự giữa 2 nước”.
Theo Khampha
Hạm đội Bắc Dương, hổ giấy của hải quân TQ
Trung Quốc từng có một hạm đội được coi là mạnh nhất châu Á, nhưng thực tế nó đã bị mục ruỗng từ bên trong.
Ở kỳ trước, chúng ta đã chứng kiến thất bại ê chề của Hạm đội Nam Dương nhà Thanh trước lực lượng hải quân Pháp ít hơn về số lượng. Một trong những nguyên nhân khiến hạm đội Nam Dương thất bại là do không được cứu viện kịp thời từ Hạm đội Bắc Dương.
Để có cái nhìn rõ hơn về Hạm đội Bắc Dương được cho là mạnh nhất hải quân Trung Quốc này, chúng ta cùng nhìn lại lịch sử Trung Quốc vào cuối thế kỷ 19.
Cuối thế kỷ 19, dưới sự thống trị của triều đình nhà Thanh, Trung Quốc ngày càng suy yếu cả về kinh tế lẫn sức mạnh quân sự. Sau hàng loạt những cuộc khởi nghĩa nông dân và liên tục bị liên quân 8 nước xâu xé, quân đội Trung Quốc trở nên bạc nhược thê thảm.
Tuy nhiên vào thời điểm này cũng không thể phủ nhận rằng ở Trung Quốc không có các điểm sáng, và một trong những điểm sáng đó chính là Hạm đội Bắc Dương, sản phẩm và là niềm tự hào của Từ Hy Thái Hậu.
Từ Hy Thái Hậu, người đàn bà đầy mưu lược của nhà Thanh
Theo các sử gia, động cơ khiến Từ Hy Thái Hậu quyết định thành lập Hạm đội Bắc Dương ngoài việc muốn hiện thực hóa tham vọng thống trị vùng biển phía bắc Trung Quốc còn do người phụ nữ đầy quyền lực và mưu lược này đã cảm thấy được nguy cơ đến từ một đế quốc trẻ ở sát ngay bên nách mình, đó chính là Đế quốc Nhật Bản.
Sau thời kỳ Duy Tân Minh Trị, Nhật Bản vươn lên từ một nhà nước phong kiến lạc hậu thành một cường quốc hùng mạnh. Là một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản ngày càng nuôi tham vọng vươn ra đại dương, đánh chiếm thuộc địa để tranh giành ảnh hưởng với phương Tây.
Mục tiêu mà đế quốc non trẻ đang khao khát thuộc địa này nhắm đến chính là Triều Tiên, quốc gia nằm dưới sự bảo hộ của nhà Thanh nhưng cũng đang bước vào giai đoạn suy yếu. Chiếm được Triều Tiên, quân Nhật sẽ có bàn đạp tiến vào vùng Mãn Châu, từ đó sẽ đưa quân nuốt gọn cả Trung Quốc, xưng hùng xưng bá ở châu Á-Thái Bình Dương, sánh vai các cường quốc thế giới. Tuy nhiên, muốn đánh chiếm Triều Tiên, Hải quân Nhật phải đánh bại được Hải quân nhà Thanh, mà chủ yếu là Hạm đội Bắc Dương, hạm đội hùng mạnh nhất châu Á của nhà Thanh, và khả năng thực sự của hai bên đã được bộc lộ trong trận hải chiến Hoàng Hải, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình vươn lên mạnh mẽ của hải quân Nhật Bản.
Trong số 4 hạm đội của hải quân nhà Thanh (Bắc Dương, Nam Dương, Phúc Kiến và Quảng Đông, Hạm đội Bắc Dương dưới sự chỉ huy của quan đại thần Lý Hồng Chương được đánh giá là có lực lượng mạnh nhất châu Á và được xếp thứ 8 thế giới.
Kỳ hạm Định Viễn khi còn được đóng tại Đức.
Hạm đội Bắc Dương được trang bị nhiều tàu chiến lớn, hiện đại được đóng ở Anh và Đức. Tổng cộng, hạm đội có 78 tàu với tổng lượng giãn nước lên tới 83.900 tấn, vượt trội hơn nhiều so với Hạm đội Nhật Bản (khoảng 60.000 tấn). Trong số đó có 2 chiến hạm Định Viễn và Trấn Viễn là những tàu mạnh nhất thuộc hạm đội. Tàu Định Viễn đóng vai trò kỳ hạm của Hạm đội Bắc Dương do Đức đóng năm 1881, bàn giao tháng 11/1885. Con tàu dài 94,5 mét này có khả năng vượt 8.300km với tốc độ trung bình 19km/h. Về sức mạnh hỏa lực, kỳ hạm Định Viễn trang bị 4 pháo 305mm có tầm bắn xa 7,8km, 2 pháo 150mm, 2 pháo 57mm, 2 pháo 47mm, 8 pháo 37mm và 4 ống phóng ngư lôi 356mm. Thủy thủ đoàn trên tàu có tổng cộng 363 người.
Chiếc mạnh số 2 trong Hạm đội Bắc Dương là tàu bọc thép Trấn Viễn cũng do Đức đóng năm 1882, được trang bị 4 pháo 305mm, 2 pháo 150mm, 6 pháo 37mm và 3 ống phóng ngư lôi. Trong khi đó, phía Hải quân Nhật Bản chỉ có chiếc tàu tuần dương bảo vệ Matsushima là loại lớn nhất được đóng tại Pháp năm 1886. Tàu Matsushima trang bị một pháo 320mm, 12 pháo 120mm, 16 pháo 57mm và 4 ống phóng lôi 356mm.
Tàu tuần dương bảo vệ Matsushima của hải quân Nhật Bản
Nhìn chung, Hạm đội Bắc Dương vượt trội hơn so với lưc lượng Nhật Bản về mọi mặt, trang bị hiện đại hơn, nhiều tàu hơn, hỏa lực mạnh hơn rất rất nhiều. Tuy nhiên, lịch sử chiến tranh đã cho thấy lực lượng mạnh hơn, hỏa lực tốt hơn không phải lúc nào cũng giành chiến thắng trong chiến trận, và trận hải chiến Hoàng Hải là một ví dụ sinh động cho thực tế trên. Tuy bề ngoài có vẻ hoành tráng và hùng hậu như vậy, nhưng trước khi bắt đầu bước vào trận chiến Hoàng Hải, lực lượng Hạm đội Bắc Dương đã bị mục ruỗng, thối nát từ bên trong.Tuy Hạm đội Bắc Dương có lực lượng khá mạnh, nhưng binh sĩ nhà Thanh có mức độ sẵn sàng chiến đấu rất kém. Do không được luyện tập thường xuyên nên thao tác và kỹ năng của các pháo thủ là rất kém. Ngoài ra, tệ nghiện hút thuốc phiện lan tràn cũng làm suy kiệt thể chất và tinh thần của không ít binh lính và sĩ quan. Cùng với đó là nạn tham nhũng hoành hành, từ cấp thấp lên đến cấp cao. Mặc dù lúc đầu được đầu tư rất lớn, nhưng từ khi Từ Hi Thái Hậu quyết định rút ngân quĩ đầu tư cho hải quân sang xây dựng cung điện Di Hòa Viên, bà đã giáng một đòn mạnh "bóp chết" Hạm đội Bắc Dương, khiến cho hạm đội hùng hậu này mất hoàn toàn khả năng sửa chữa các chiến hạm, duy trì hoạt động huấn luyện chiến đấu.
Thủy thủ Trung Quốc trên một tàu chiến của Hạm đội Bắc Dương
Các quan lại tham nhũng tràn lan, đạn pháo bị nhồi xi măng hay mạt cưa thay cho thuốc súng. Về phần số đạn pháo thực sự thì được sản xuất từ nhiều năm trước, đã rất cũ kĩ do bảo dưỡng kém. Trên các chiến hạm, đa số cấp chỉ huy sa đà vào ăn chơi thác loạn, thậm chí có sĩ quan còn cho tháo cặp pháo 254mm đem ra chợ bán lấy tiền tiêu xài. Từ sĩ quan đến binh lính đua nhau tham ô biển thủ, cấp bậc càng cao thì tham nhũng càng nhiều. Ngay cả những thứ nhỏ nhặt nhất như các tay đấm cửa bằng đồng, lan can cầu thang cho đến những lá chắn bảo vệ ụ pháo bằng thép dày đều bị ăn cắp để đem bán. Đây là điều tất yếu, bởi do ngân sách của hạm đội bị cắt giảm, hoạt động đình trệ, thủy thủ đoàn không có tiền lương nuôi bản thân và gia đình, lại "nhàn cư vi bất thiện" mà quên đi bổn phận người lính với đất nước mà sa đà vào ăn chơi. Có thể nói, Hạm đội Bắc Dương là lực lượng có trang bị mạnh, nhưng đang lung lay từ tận gốc rễ, tệ nạn tham nhũng đã gặm nhấm đến những phần tử nhỏ nhất của con tàu.
Không chỉ mục ruỗng, thối nát từ bên trong, quan hệ giữa Hạm đội Bắc Dương với các hạm đội còn lại, đặc biệt là Hạm đội Nam Dương còn bị chia rẽ rất sâu sắc. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong trận chiến Thập Phổ, khi Hạm đội Bắc Dương khoanh tay ngồi nhìn Hạm Đội Nam Dương bị quân Pháp săn lùng và tấn công tiêu diệt.
Trước khi trận Thập Phổ diễn ra, Hạm đội Bắc Dương đã cử 2 tuần dương hạm đến hỗ trợ Hạm đội Nam Dương tấn công phá vòng vây của hải quân Pháp ở Đài Loan. Nhưng chưa kịp tham chiến thì Lý Hồng Chương đã cho gọi 2 tuần dương hạm này về, khiến cho Hạm đội Nam Dương thảm bại trước quân Pháp.
Một trường hợp khác, liên quan đến 6 pháo hạm do Anh đóng, có trong biên chế Hạm đội Bắc Dương, lần lượt mang tên: Trấn Bắc, Trấn Nam, Trấn Đông, Trấn Tây, Trấn Trung và Trấn Biên được bàn giao năm 1879. Bốn chiếc đầu tiên trong số 6 pháo hạm này đáng lẽ phải bàn giao cho Hạm đội Nam Dương, nhưng đã bị Lý Hồng Chương giữ lại để trang bị cho Hạm đội Bắc Dương. Thay vào đó, Hạm đội Nam Dương chỉ nhận được 4 pháo hạm cũ kĩ, đã phục vụ trong Hạm đội Bắc Dương từ năm 1876.
Những hành động này của Lý Hồng Chương đã khiến các sĩ quan Hạm đội Nam Dương "khắc cốt ghi tâm", và trong trận hải chiến Hoàng Hải sau đó, Hạm đội Nam Dương hầu như đã không làm gì để cứu viện cho Hạm đội Bắc Dương.
Rõ ràng, Hạm đội Bắc Dương chỉ là "con hổ giấy". Tuy bề ngoài được xem là hùng mạnh nhất châu Á nhưng bên trong thì các tàu chiến chủ lực đều bị "mục ruỗng", sĩ khí binh lính hầu như không có, nội bộ thì chia rẽ trầm trọng.
Khác với Hạm đội Bắc Dương đang suy tàn, Hạm đội Nhật Bản liên tục được nâng cấp, bổ sung thêm các tàu chiến mới. Ngoài ra, thủy thủ Nhật Bản cũng được đào tạo một cách có bài bản, sẵn sàng chiến đấu cao. Rõ ràng, tuy chưa đánh nhưng "hổ giấy" Hạm đội Bắc Dương gần như đã thua.
Chỉ huy kém cỏi, thối nát, trang bị "đông nhưng không mạnh", Hạm đội Bắc Dương đã hứng chịu thất bại đau đớn trước Hạm đội Nhật Bản trong trận chiến Hoàng Hải năm 1894. Diễn biến của trận hải chiến đầy kịch tính này ra sao, mời các bạn đón đọc Kỳ 5: Kết cục thảm hại của hạm đội mạnh nhất Trung Quốc vào 19h ngày 1/6/2014.
Theo Khampha
Hải chiến Thập Phổ: Thảm bại của hạm đội hèn nhát Dù là lực lượng được cử đi phá vây, song quân Thanh lại bị quân Pháp săn lùng. Sự hèn nhát của hải quân nhà Thanh đã phải trả giá đắt. Ở kỳ trước, chúng ta thấy rằng mặc dù là hạm đội đóng vai trò là lực lượng xung kích được cử đi phá vòng vây của hải quân Pháp tại eo...