Kế hoạch táo bạo rút cạn Địa Trung Hải, sáp nhập châu Âu châu Phi
Trong lúc châu Âu lâm vào cơn khủng hoảng sau Thế chiến thứ nhất, kiến trúc sư người Đức Herman Srgel đã đề xuất xây dựng một hệ thống đập thủy điện nhằm hạ thấp mực nước biển Địa Trung Hải để sáp nhập châu Âu với châu Phi tạo thành một siêu lục địa mới có tên Atlanropa.
Hệ thống đập thủy điện nhằm hạ thấp mực nước Địa Trung Hải và sáp nhập châu Âu với châu Phi. Ảnh: Wikimedia Commons
Thập niên 1920 đã sản sinh ra những sáng tạo tuyệt vời như thuốc penicillin và đèn giao thông, nhưng đây cũng là lúc xuất hiện một số dự án kỹ thuật tham vọng đáng lo ngại. Lớn nhất và kỳ lạ nhất là Atlantropa – kế hoạch xây dựng một hệ thống đập thủy điện ngang qua eo biển Gibraltar, sản xuất đủ điện để cung cấp năng lượng cho một nửa châu Âu và rút cạn Địa Trung Hải để mở đường cho con người định cư tại một siêu lục địa Âu – Phi mới.
Mặc dù nghe có vẻ như một câu chuyện khoa học viễn tưởng kỳ quái, kế hoạch này đã thực sự tồn tại. Thậm chí một số chính phủ còn nghiêm túc xem xét nó cho đến tận những năm 1950.
Sau Thế chiến thứ nhất, các nhà khoa học, triết gia và kỹ sư tin rằng có thể giải quyết những gì họ cho là căn bệnh nan y với xã hội châu Âu bằng những đại dự án. Trong số họ có kỹ sư người Đức Herman Srgel.
Vào năm 1927, ở tuổi 42, Srgel đã lần đầu tiên xây dựng kế hoạch thành lập siêu lục địa Atlantropa, mà ban đầu ông gọi là Panropa. Được truyền cảm hứng từ những dự án cơ khí khổng lồ như kênh đào Suez, Srgel thậm chí còn đặt ra tham vọng cao hơn.
Tác giả của dự án Atlantropa, Herman Srgel (1885-1952). Ảnh: Bảo tàng quốc gia Đức
Kế hoạch của Srgel cho Atlantropa là xây dựng một hệ thống những con đập ngang qua eo biển Gibraltar, rút nước ở Địa Trung Hải. Những đập thủy điện cũng được xây dựng qua eo biển Sicily, nối Italy với Tunisia, trong khi những con đập khác bắc qua eo Dardanelles ở Thổ Nhĩ Kỳ, nối Hy Lạp với châu Á.
Video đang HOT
Tất cả những con đập này sẽ tạo nên một loạt cây cầu nối châu Âu và châu Phi thành một mạng lưới đường bộ và đường sắt khổng lồ, “kết dính” hai lục địa với nhau.
Với trên 660.000km2 đất mới được khai hoang và những con đập tạo ra đủ năng lượng cho trên 250 triệu người mỗi ngày, châu Âu sẽ bước vào mọt kỷ nguyên vàng, với nguồn điện dồi dào, không gian rộng rãi và nguồn cung cấp thực phẩm vô tận từ vùng đất nông nghiệp mới. Trong tầm nhìn của Srgel, siêu lục địa mới là cách duy nhất để ngăn chặn một cuộc xung đột toàn cầu khác.
Thời kỳ đó, vẫn quay cuồng với nỗi kinh hoàng của Thế chiến I, châu Âu vật lộn để tìm ra hy vọng cho tương lai. Mặc dù “lục địa già” đã phải chịu tổn thất lớn về sinh mạng trong chiến tranh và đại dịch cúm năm 1918, dân số vẫn tăng từ 488 triệu lên 534 triệu người trong giai đoạn 1920-1930.
Cùng lúc đó, nền chính trị châu Âu đã đạt đến điểm căng thẳng nhất trong nhiều thế kỷ. Các quốc gia như Ba Lan và Nam Tư đã giành được độc lập sau nhiều thập kỷ bị các đế quốc cai trị. Vì thế cư dân của các đế chế cũ lo sợ không còn chỗ cho họ cả về vị trí vật lý, xã hội hay văn hóa. Trong bối cảnh đó, khái niệm về “Lebensraum”, hay “không gian sống”, đã thu hút sự chú ý trong nền chính trị Đức. “Lebensraum” đặt ra niềm tin rằng điều quan trọng nhất để tồn tại và phát triển đối với một xã hội [phân biệt chủng tộc] là lãnh thổ để cung cấp không gian cho các thành viên. Vì thế cam kết của Atlantropa có vẻ giống như “viên đạn bạc”, sẽ giải quyết được những vấn đề của “lục địa già” chật chội.
Điều kỳ lạ nhất về kế hoạch của Herman Srgel là sẽ hút cạn Địa Trung Hải, nhưng thực tế là ý tưởng đó đã được xem xét nghiêm túc. Ông Srgel đã xuất bản một cuốn sách có tựa đề “Lowering the Mediterranean, Irrigating the Sahara: The Panropa Project in 1929″ (tạm dịch, Rút nước Địa Trung Hải, tưới tiêu cho Sahara: Dự án Panropa vào năm 1929). Cuốn sách lập tức khiến dư luận khắp châu Âu và Bắc Mỹ xôn xao.
Minh họa hệ thống thủy điện – cầu ngang qua các eo biển nhằm kết nối châu Âu – châu Phi.
Thời kỳ thập niên 1930, các dự án kỹ thuật khổng lồ đã phát triển mạnh mẽ, như ngăn lũ ở Thung lũng Tennessee, xây dựng đập Hoover hay đào kênh Baltic-Bạch Hải ở Liên Xô. Trong bối cảnh đó, Atlantropa có vẻ hợp lý và thú vị.
Kế hoạch táo bạo của Srgel thậm chí đã truyền cảm hứng cho một cuốn tiểu thuyết có tên là “Panropa” vào năm 1930. Trong đó một nhà khoa học siêu anh hùng người Đức tên là Tiến sĩ Maurus có kế hoạch rút nước khỏi Địa Trung Hải, mang đến sự thịnh vượng tuyệt vời bất chấp âm mưu phá hoại của những nhân vật phản diện người châu Á và Mỹ.
Srgel còn thành lập cả Viện Atlantropa, với thành viên là những người ủng hộ tài chính, các kiến trúc sư, kỹ sư. Trong nhiều năm kế hoạch được hưởng ứng công khai trên các báo và tạp chí. Những câu chuyện về Atlantropa thường có hình minh họa màu sắc sinh động, do chính vợ Srgel, một nhà môi giới nghệ thuật thành công, tài trợ tiền.
Mặc dù giấc mơ của Srgel đã gây chấn động người châu Âu về một xã hội không tưởng vinh quang, nhưng Atlantropa cũng đi kèm một mặt tối hiếm khi được thảo luận trong cuộc đời Srgel.
Tuy có tầm nhìn xa, Herman Srgel lại giữ một quan điểm bảo thủ đáng sợ về quốc tịch và chủng tộc. Không giống như những người cùng thời Đức Quốc xã, ông tin rằng mối đe dọa chính đối với Đức không nằm ở người Do Thái, mà là ở châu Á.
Trong suy nghĩ của ông ta, thế giới nên được phân chia thành ba khối: châu Mỹ, châu Á và Atlantropa. Tại Atlantropa, người châu Âu da trắng sẽ trở thành chủng tộc thống trị, sử dụng người châu Phi da đen làm nguồn lao động và được tách biệt nghiêm ngặt.
Khi những con đập và cây cầu trong dự án của ông được xây dựng, toàn bộ các khu vực và nền văn hóa vốn bám rễ vào biển trong nhiều thế kỷ sẽ đột ngột bị chặn lại. Ngoài ra, việc chuyển hướng dòng chảy còn đồng nghĩa người dân ở các khu vực khác sẽ mất nhà cửa.
Một phần trong đề xuất của Srgel liên quan đến việc chặn sông Congo ở Trung Phi, mà không xem xét tới cuộc sống của hàng chục triệu người dân sống ở nơi đây. Thay vào đó, nước sẽ được chuyển hướng đến Sahara, tạo thành những hồ nước ngọt rộng lớn và biến sa mạc thiêu đốt thành đất nông nghiệp.
Srgel đã đưa ý tưởng của mình cho Đức quốc xã, tin rằng họ sẽ ủng hộ ông. Nhưng ngay cả với những gì bạo lực mà ông ta dự định mang đến cho các dân tộc châu Phi, kế hoạch của Srgel vẫn còn là “hòa bình” so với những gì Đức quốc xã đã nghĩ đến. ngoài ra, nỗ lực của Srgel hướng sự chú ý tới châu Phi đã không phù hợp với mục tiêu khi đó của Hitler là nghiền nát Liên Xô.
Srgel đã công khai ý tưởng của mình tại Hội chợ Thế giới New York năm 1930, nhưng khi không có sự hỗ trợ chính thức nào, ông ta không thể thực hiện điều gì với kế hoạch của mình.
Ý tưởng về đập Gibraltar nối giữa Tây Ban Nha và Maroc. Ảnh: Wikimedia Commons
Sau khi khói lửa của Thế chiến II đã lắng xuống, Srgel lại nhen nhóm hy vọng về kế hoạch của mình, ông nhanh chóng bắt tay vào thúc đẩy các ý tưởng về siêu lục địa Âu – Phi một lần nữa.
Atlantropa thu hút sự quan tâm từ nhiều chính trị gia và nhà công nghiệp, nhưng ngay cả khi Đức Quốc xã đã sụp đổ, Srgel vẫn không rút lại các yếu tố phân biệt chủng tộc trong tầm nhìn của mình. Và trên hết, thế giới đang chuyển động theo hướng thiết thực hơn. Cộng đồng Thép và Than châu Âu của Jean Monnet đã ra đời trong thời kỳ này, và sau đó trở thành tiền thân của Liên minh châu Âu ngày nay.
Hơn nữa, các lò phản ứng điện hạt nhân đã báo hiệu dấu chấm hết cho ý tưởng về Atlantropa. Cuối cùng châu Âu đã có thể tiếp cận với nguồn năng lượng dồi dào hơn và thực tế hơn nhiều so với hệ thống đập thủy điện mà Srgel đề ra. Khi thủy điện bị bỏ lại sau lưng, giấc mơ không tưởng của Srgel không bao giờ được xem xét nữa.
Tới cuối đời, Srgel viết thêm 4 cuốn sách, đăng hàng ngàn bài báo và thực hiện vô số bài thuyết trình về giấc mơ của mình, nhưng ý tưởng Atlantropa về cơ bản đã chết theo ông. Đêm 4/12/1952, Srgel đạp xe tới trường Đại học Munich để giảng dạy thì bị xe ô tô đâm chết. Tới năm 1960, Viện Atlantropa do ông thành lập vĩnh viễn đóng cửa.
Cảnh báo tác động của con người đối với Nam cực ngày càng lớn
Các nhà khoa học ngày 15/7 đã đưa ra cảnh báo rằng tác động của con người đối với vùng đất rộng lớn ở Nam cực ngày càng gia tăng cả về phạm vi và cường độ, ngoài hoạt động của các trạm nghiên cứu khoa học và du lịch sinh thái dọc vùng cực Nam của Trái Đất.
Đốm tảo xanh xuất hiện dày đặc tại vùng tuyết trắng Nam Cực. Ảnh: AFP
Theo hầu hết mọi định nghĩa, châu Nam cực đến nay vẫn là lục địa nguyên sơ và ít ô nhiễm nhất trên hành tinh vì không có thành thị, hoạt động nông nghiệp hay công nghiệp.
Ông Steven Chown, Giáo sư tại Đại học Monash ở Melbourne (Australia), đồng thời là tác giả một nghiên cứu đăng tải trên tạp chí khoa học Nature, cho biết kể từ khi lần đầu tiên đặt chân đến các bờ biển đóng băng ở Nam cực cách đây 200 năm, các nhà thám hiểm và nhà khoa học đã vượt qua dải băng dày hàng km che khuất địa hình thực sự của nó, và có mặt ở khắp mọi nơi. Những chuyến thám hiểm này thường rất ngắn và đến những nơi được bao phủ trong băng tuyết và tác động gây cho những khu vực này thường là rất nhỏ, không đáng kể. Ngay cả những khu vực chứng kiến hoạt động xây dựng các trạm nghiên cứu và lượng du khách ngày càng tăng, tổn hại cũng chỉ hạn chế ở mức dưới 0,5% lãnh thổ của lục địa.
Theo Nghị định thư 1991 về bảo vệ môi trường gắn liền với Hiệp ước Nam cực, các hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản đều bị cấm. Tuy nhiên, theo ông Chown, người sử dụng các kỹ thuật về Dữ liệu lớn để phân tích 2,7 triệu hồ sơ ghi chép lại hoạt động của con người tại Nam cực trong hơn 2 thập kỷ, điều này không có nghĩa là không có hoạt động gây tổn hại nào, thậm chí còn gây tác động lớn.
Ông Chown, người cũng là Chủ tịch Ủy ban khoa học về Nghiên cứu Nam cực, lấy dẫn chứng là trong số những khu vực bảo tồn chim quan trọng ở Nam cực, chỉ có 16% loài an toàn trong các khu vực mà ông Chown và các đồng nghiệp xác định là những khu vực chịu tác động không đáng kể.
Theo ông Chown, đa dạng sinh học là nền tảng cho toàn bộ sự sống, đặc biệt đa dạng sinh học ở Nam cực giúp con người hiểu được cuộc sống sẽ như thế nào ở những nơi khác trong vũ trụ. Theo nghiên cứu trước đây, các khu vực bảo vệ đặc biệt chiếm ít hơn 2% diện tích Nam cực nhưng bao gồm 44% các loài đã được xác định như chim biển, các loài thực vật, động vật không xương sống. Hiện có hơn 2.000 loài sinh vật tại Nam cực đã được xác định nhưng danh sách này có thể dài hơn nữa.
Văn minh Hy-La - nền tảng vững chắc của văn minh phương Tây Kỳ I Sự thành công của nền văn minh Hy-La được kiến tạo nên từ những giá trị cốt lõi như tầm ảnh hưởng rộng lớn, sự hiểu biết, nỗ lực học hỏi và sáng tạo không ngừng nghỉ cùng chiến lược đúng đắn - tinh thần đoàn kết. Trong dòng chảy của lịch sử văn minh phương Tây cổ đại, hai nền văn minh...