Jan Berzin – nhà tiên tri của tình báo Liên Xô
Lịch sử nước Nga và Liên Xô không thể không nhắc tới những người con ưu tú của dân tộc Latvia đã hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng và cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Tiêu biểu nhất là nhà lãnh đạo tình báo quân đội Jan Berzin. Ông là một trong những người sáng lập ngành tình báo Liên Xô và dự báo chính xác thời điểm xảy ra Thế chiến thứ hai dựa trên những thông tin tình báo thu thập được.
Khởi đầu
Jan Karlovich Berzin tên thật là Peteris Janovich Kuzis, sinh ngày 13/11/1889, trong gia đình một nông dân nghèo người Latvia. Tốt nghiệp phổ thông, ông vào học Trường trung cấp Sư phạm ở thị trấn Kuldiga, ngôi trường đã khiến ông bị tổn thương suốt đời: “Đó là một nhà tù thu nhỏ dành cho trẻ vị thành niên, được thành lập theo mô hình trại lính, với các hình phạt, đạo đức giả, dối trá. Những năm tháng học tập ở đây đã gieo vào lòng tôi sự căm ghét trường học”, – Kuzis nói.
Năm 1905, trở thành đảng viên đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga, Peteris tham gia tích cực vào cuộc Cách mạng 1905-1907. Năm 1907, ông bị kết án 8 năm lao động khổ sai vì giết một cảnh sát, nhưng do đang ở tuổi vị thành niên nên thời hạn tù được giảm xuống còn 2 năm. Năm 1909, ông trở về Riga, nhưng lại bị bắt vì hoạt động cách mạng và năm 1911 bị đày đến tỉnh Irkutsk, từ đó, năm 1914, ông bỏ trốn với giấy tờ giả mang tên Jan Karlovich Berzin. Với cái tên này, nhà tình báo nổi tiếng đã đi vào lịch sử.
Trong Thế chiến thứ nhất, Jan Berzin nhập ngũ rồi đào ngũ. Sau đó làm thợ cơ khí tại các nhà máy ở Petrograd, đồng thời tham gia tích cực cuộc Cách mạng Tháng Hai. Mùa hè năm 1917 – ông trở thành biên tập viên của tờ báo Latvia “Proletariata cina” (“Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản”).
Trong thời gian xảy ra cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười năm 1917, Jan Berzin là Ủy viên Ban chấp hành đảng bộ quận Vyborg và Ủy viên Thành ủy Petrograd. Từ tháng 12/1917, ông làm việc trong bộ máy Cheka của Cộng hòa XHCN Xôviết Liên bang Nga. Từ tháng 1/5/1919, ông là Phó Ủy viên Nhân dân (Thứ trưởng) Bộ Dân ủy Nội vụ Latvia.
Tháng 12/1920, Jan Berzin được bổ nhiệm giữ chức trưởng phòng Tình báo quân đội Liên Xô. Hóa ra, vào thời điểm đó, những người Latvia trung thành với sự nghiệp cách mạng Bolshevik, biết tiếng Đức và hiểu rõ tâm lý Châu Âu, đã lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ cao trong các cơ quan tình báo.
Đầu tiên, tình báo quân đội do Janis Lencmanis lãnh đạo, sau đó là Arvids Zeibots, còn năm 1924, quyền lực trong Cục Tình báo Quân đội được chuyển cho Jan Berzin. Và điều đáng ngạc nhiên là đến đầu năm 1919, trong số 89 điệp viên của Cục Tình báo Quân đội, có gần một nửa là người Latvia hoặc Estonia.
Hiện nay, các hoạt động của Kuzis-Berzin đôi khi được đánh giá hoàn toàn trái ngược nhau. Theo quan điểm của một số nhà sử học, Jan Berzin là một nhà tình báo xuất chúng. Tuy nhiên, trong các tài liệu lịch sử cũng có những lập luận cho rằng trong một số trường hợp, ông tuyển mộ những người kém năng lực vào công việc. Dưới sự lãnh đạo của ông, các điệp viên đôi khi “thất bại”, còn ông nhấn mạnh vào các hoạt động phá hoại không mang lại thông tin tình báo.
Vậy Jan Berzin là nhà lãnh đạo tình báo như thế nào? Để chứng minh trình độ chuyên môn cao của ông, cách đây nửa thế kỷ, các nhà sử học đã nêu tên những nhà tình báo nổi tiếng từng được tuyển mộ vào Cục Tình báo trong thời gian ông làm lãnh đạo. Đó là Richard Sorge, Lev Manevich, Leopold Trepper. Trong những thập kỷ gần đây, đã phát hiện ra những cái tên mới như: Yan Chernyak, Kristaps Salnins…
Những người làm nên hình tượng Stierlitz
Xin nêu một ví dụ. Có lẽ, nhiều người biết tên mạng lưới điệp viên nổi tiếng “Dàn nhạc Đỏ” hoạt động cho tình báo Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Trong khi đó, mạng lưới tình báo “Krona” hoạt động ở Đức Quốc xã lại ít được biết đến.
Nhưng chính người thành lập nhóm này, Anh hùng Liên bang Nga Yan Chernyak, chiến hữu của Jan Berzin, có thể được coi là một trong những nguyên mẫu lịch sử của nhân vật Stierlitz nổi tiếng. Không phải vô cớ mà khi nhà văn Yulian Semyonov viết cuốn sách “Mười bảy khoảnh khắc của mùa xuân”, ông đã xin phép GRU (Cơ quan Tình báo đối ngoại của Bộ Quốc phòng Liên Xô) gặp Yan Chernyak.
Yan Chernyak là chuyên gia hoạt động bí mật, nhà tổ chức xuất sắc. Các điệp viên của ông ở Đức là chủ ngân hàng lớn, thư ký bộ trưởng và những người cung cấp thông tin có giá trị. Trong suốt cuộc chiến tranh, nhóm “Krona” không thất bại lần nào.
Video đang HOT
Tất nhiên, Max Otto von Stierlitz là một hình tượng phổ quát. Còn một nguyên mẫu khác của nhân vật này là Kristaps Salnins, đồng đội cũ của Jan Berzin, người Latvia. Được biết, nhà văn Yulian Semyonov đã dựa trên nguyên mẫu này để mô tả cuộc đời nhân vật của mình từ thời trẻ đến khi về già.
Tiểu thuyết “Không cần mật khẩu” kể về những năm tuổi trẻ của Maxim Isaev. Theo nhà văn Yulian Semyonov, tác phẩm này ra đời từ một câu trong bức mật mã được gửi đến Moscow mà ông tìm thấy tại kho lưu trữ. Đó là: “… người của ta từng hoạt động ở Vladivostok, đã được đưa ra nước ngoài để tiếp tục công tác ở hải ngoại”. Bức mật mã nói về Kristaps Salnins.
Nhà tình báo Kristaps Salnins.
Các nhà tình báo người Latvia khác
Kristaps Salnins hoàn toàn không phải là nhân viên tình báo Liên Xô duy nhất người Latvia. Jan Berzin thích tuyển mộ những người đồng hương của mình vào làm việc trong “văn phòng” của ông. Đôi khi, cả gia đình người Latvia làm việc cho tình báo Liên Xô. Ví dụ, chúng ta biết đến gia đình Tiltin. Alfred Tiltin là điệp viên ở Mỹ. Vợ ông, Maria Schultz, một phụ nữ duyên dáng, xinh đẹp, nổi tiếng là “tay bắn tỉa” trong giới tình báo: bằng ánh mắt của mình, Maria có thể “hạ gục” ngay tại chỗ những người đàn ông mà bà muốn tuyển mộ. Năm 1933, Schultz bị bắt ở Phần Lan và bị kết án dài hạn vì tội làm gián điệp.
Peteris, em trai của Alfred Tiltin, khi ở Pháp, vì lý do bảo mật, đã thay đổi họ tên và trở thành Pols Armans. Ông đã đi vào lịch sử với các tên Pols Armans, nhà tình báo, chiến sĩ lái xe tăng, Anh hùng Liên Xô.
Còn một “chiến sĩ mặt trận vô hình” khác của Liên Xô người Latvia là Janis Krikmanis. Cuộc đời ông có thể dựng thành phim. Chỉ cần nói rằng trong chiến dịch “Trust” nổi tiếng của Tổng cục Chính trị Nhà nước Liên Xô, chính Janis Krikmanis đã vượt biên và bắt giữ Boris Savinkov, thủ lĩnh của tổ chức Bạch vệ ngầm.
Ngày nay, tên tuổi của Krikmanis, Tiltin và Kristaps Salnyns, Berzin… đã bị lãng quên. Ở Latvia, rất hiếm những người có cuộc đời phi thường, đầy phiêu lưu như họ. Lịch sử đất nước không có nhiều nhân vật tầm cỡ như vậy. Quả thật, họ không bị phê phán, nhưng cũng không được tôn vinh, đơn giản là bị lãng quên.
Jan Berzin rất giỏi phân tích các thông tin tình báo. Ngay từ cuối những năm 20, cùng với một nhân viên của mình, ông đã xuất bản cuốn sách về cuộc chiến tranh tương lai. Trong đó, Jan Berzin vạch trần những tư tưởng quá tự tin cho rằng Hồng quân sẽ giành chiến thắng một cách dễ dàng, ít tổn thất.
Berzin cho rằng cuộc chiến tranh tương lai có thể nổ ra mà không được tuyên bố chính thức, đó sẽ là một “cuộc chiến tranh động cơ”, có thể kéo dài 3-4 năm và đòi hỏi sự nỗ lực to lớn của nhân dân Liên Xô. Tuy nhiên, bất chấp lời cảnh báo của ông, bộ máy tuyên truyền thời bấy giờ lớn tiếng khẳng định rằng kẻ thù sẽ bị đánh bại nhanh chóng.
Nhân vật Max Otto von Stierlitz trong phim “Mười bảy khoảnh khắc của mùa xuân”.
Những chiến công tình báo
Như chúng ta biết, các nhân viên của Jan Berzin đã chịu nhiều thất bại trong hoạt động của mình. Bởi vì họ làm việc trong những điều kiện rất khó khăn: sau cách mạng, các cơ sở tình báo của Liên Xô ở nước ngoài đôi khi phải bắt đầu từ số 0, vì thiếu nhân lực họ buộc phải tuyển mộ những người không có chuyên môn, hơn nữa sự tài trợ không đáp ứng nhu cầu. Đôi khi các nhân viên tình báo phải thành lập các doanh nghiệp thương mại ở nước ngoài để kiếm sống và tiến hành hoạt động tình báo.
Mặc dù vậy, rất nhiều lần họ đã giành được những kết quả tốt: khai thác được các tài liệu kỹ thuật về vũ khí hiện đại và tuyển mộ được những người có thế lực. Chẳng hạn như Léon Theremin, một nhà khoa học và nhạc sĩ Mỹ, vốn có quan hệ gần gũi với Tổng thống tương lai Dwight D. Eisenhower và Leslie Groves, người phụ trách Dự án Manhattan nghiên cứu và phát triển bom nguyên tử trong tương lai.
Như đã trình bày ở trên, nhiều năm trước khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Jan Berzin đã dự báo rằng Liên Xô sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh lâu dài. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách của ngành tình báo là thu thập thông tin về những đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực vũ khí.
Đây là điều cần thiết để biết các nước khác trang bị vũ khí như thế nào và để các nhà khoa học và công trình sư Liên Xô có thể so sánh thành tựu của mình với những gì đang được sản xuất ở phương Tây. Chẳng hạn, ở Ý, Lev Manevich đã thu thập được các bản vẽ và báo cáo thử nghiệm về các máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, tàu ngầm mới, pháo 37mm và thiết bị điều khiển hỏa lực pháo binh trung tâm trên tàu chiến.
Ở Pháp, Pavel Stuchevsky đã thành lập một mạng lưới tình báo tại các cảng Marseille, Toulou và Saint-Nazaire. Với sự trợ giúp của họ, ông đã khai thác được nhiều thông tin về tàu ngầm và ngư lôi. Ngoài ra, tại Lyon, các điệp viên của Stuchevsky đã lấy được bản vẽ của một chiếc máy bay quân sự mới.
Nhưng có lẽ, độc đáo nhất là các hoạt động thu thập thông tin kỹ thuật quân sự của phương Tây được các nhân viên tình báo Liên Xô tiến hành ở Mỹ. Ví dụ, các nhân viên tình báo Liên Xô không chỉ thu được thông tin về xe tăng Christie M1936 do John Walter Christie thiết kế mà còn tháo tháp pháo của nó và chuyển xe tăng này về Liên Xô dưới vỏ bọc một chiếc máy kéo.
Họ bí mật vận chuyển cả máy bay quân sự từ Mỹ về Liên Xô. Ví dụ, máy bay ném bom hạng nhẹ Vultee V-11 hai chỗ ngồi đã được vận chuyển về Liên Xô dưới vỏ bọc một chiếc máy bay đưa thư.
Năm 1937, trong thời kỳ Đại thanh trừng, Jan Berzin bị bắt và năm 1938, ông bị xử bắn. Trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, con trai ông, Andrey, đã chiến đấu trong Sư đoàn bộ binh số 201 của Latvia và hy sinh anh dũng.
Cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại đã chứng minh những dự báo của Jan Berzin là hoàn toàn chính xác
Cái kết của siêu "chuột chũi" KGB
Ngày 18/7/1985, Đại tá Oleg Gordievsky rời khỏi nhà mình ở đại lộ Lenin 109. Ông mặc một bộ đồ thể thao và đi giày thể thao.
Ông chạy bộ buổi sáng theo thói quen của mình với trang phục này. Nhưng Gordievsky đã không quay trở lại sau buổi tập chạy - thực tế là ông ta đã biến mất.
Đây là một trong những vụ đào tẩu tai tiếng nhất của tình báo Liên Xô sang phương Tây. Đã làm việc cho MI6 được 11 năm, đặc vụ Ovation (biệt danh của Gordievsky do tình báo Anh đặt) bỏ trốn ra nước ngoài trong bộ dạng có vẻ nực cười như trên.
Kẻ phản bội giấu mình hơn một thập kỷ
Thiếu tướng Yuri Kobaladze, người cùng làm việc với Gordievsky khi còn ở London thừa nhận rằng tình báo Anh đã thực hiện chiến dịch giải cứu đặc vụ của mình một cách hoàn hảo. Viên đại tá mất tích được tìm kiếm khắp cả nước. Giả thiết được đưa ra là ông ta đã đến thăm một trong những người bạn ở nhà nghỉ, nhiều phương án khác nhau đã được xem xét, kể cả việc bị côn đồ tấn công. Do trước khi mất tích, không ai nghĩ ông ta lại là đặc vụ Anh MI.6. Thậm chí KGB không thể tưởng tượng được rằng Gordievsky, một điệp viên với 23 năm kinh nghiệm lại có thể trở thành một kẻ phản bội và bỏ trốn.
Không lâu trước khi mất tích, Gordievsky đã bị giám sát ở Moscow. Đây là một biện pháp phòng ngừa: các nhân viên phản gián muốn đảm bảo rằng Gordievsky mới trở về từ nước Anh đã không thực hiện bất kỳ hành động đáng ngờ nào. Vào ngày ông ta bỏ trốn, các nhân viên giám sát quyết định không theo dõi khi ông chạy bộ. Kết quả là kẻ phản bội đã qua mặt họ.
Sự thật khó nhằn về sự mất tích của Gordievsky chỉ được tiết lộ vào tháng 9/1985, khi Liên Xô nhận được khuyến cáo từ phía Anh nói rằng Oleg Gordievsky đã được tị nạn chính trị ở Anh theo yêu cầu của ông ta và người Anh có ý định trục xuất một loạt các đại diện Liên Xô cùng gia đình họ. Liên Xô được yêu cầu tự triệu hồi những người này về nước để tránh việc phải chính thức tuyên bố đó là những nhân vật không được chào đón và ngăn một vụ scandal.
Không đợi phản hồi từ Liên Xô, người Anh đã trục xuất những nhân viên được Oleg điểm tên. Phản ứng của chính quyền Liên Xô cũng tương tự: 25 người Anh đã bị trục xuất khỏi nước này. Tổng cộng, có khoảng 70 nhân viên thương mại Liên Xô và của các tổ chức quốc tế khác nhau không liên quan đến tình báo đã rời khỏi Vương quốc Anh.
Nhưng thiệt hại do Oleg Gordievsky gây ra không chỉ giới hạn ở vụ trục xuất các nhà tình báo và nhà ngoại giao Liên Xô khỏi Anh với số lượng lớn nhất trong nhiều thập kỷ. Sau này mới vỡ lẽ: Oleg đã cộng tác với tình báo Anh ít nhất là từ năm 1974. Ông ta đã hành động một cách khôn ngoan. Và để bản thân không bị nghi ngờ, ông ta đã giao cho người Anh địa chỉ, mật khẩu và diện mạo chi tiết của nhiều người: đồng nghiệp, các đặc vụ nước ngoài được KGB tuyển dụng hoặc những người có thể đã được tuyển dụng.
Chỉ sau khi Oleg bỏ trốn người ta mới biết rõ ai là người đứng sau các vụ nhiều công dân Liên Xô nhập cư bất hợp pháp ra nước ngoài đã gặp sự cố và không chỉ ở châu Âu. Ví dụ, Oleg đã chỉ điểm khiến điệp viên Liên Xô Alexandr Kozlov bị bắt ở Nam Phi và phải ngồi tù 2 năm trong điều kiện khủng khiếp tại nhà tù của nước này.
Lý do khiến Oleg Gordievsky bỏ chạy sang Anh năm 1985 đã rõ: lo sợ bị lộ. Nhưng điều đáng quan tâm hơn là điều gì là nguồn cơn đã khiến ông ta phản bội?
Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tiếp Gordievsky.
Oleg Gordievsky sinh năm 1938 trong gia đình một nhân viên NKVD. Anh trai của ông, Vasily cũng là nhà tình báo, làm việc tại Đông Nam Á và qua đời năm 1972 sau khi mắc bệnh viêm gan siêu vi. Oleg học tại MGIMO (Học viện Quan hệ quốc tế Moscow) và trong thời gian học đã sang thực tập tại Đan Mạch. Sau khi tốt nghiệp năm 1962, ông ta đến Lubyanka theo lời giới thiệu và bảo lãnh của cha và anh trai và được đào tạo tại trường tình báo. Từ năm 1963, Oleg làm việc tại PGU (Tổng cục chính yếu số 1) KGB.
Oleg có chuyến công tác đầu tiên tới Đan Mạch vào năm 1966: ông ta đã giúp những người nhập cư bất hợp pháp Liên Xô có được giấy tờ của Đan Mạch. Năm 1970, Oleg trở lại Moscow và tiếp tục làm việc tại Văn phòng trung tâm PGU của KGB. Đến tháng 10/1972, ông lại được cử đến Copenhagen dưới vỏ bọc là tùy viên báo chí của đại sứ quán.
Trong hồi ký của mình, Oleg viết rằng chính trong chuyến công tác này ông bắt đầu tự nguyện hợp tác với tình báo Đan Mạch. Theo phán đoán của ông, khi biết điện thoại của các nhà ngoại giao Liên Xô bị nghe lén, trong cuộc trò chuyện với người vợ đầu tiên dường như như ông đã đặc biệt chỉ trích hệ thống Liên Xô, điều này đã thu hút sự chú ý của bên tuyển dụng.
Oleg đã có bước quyết định hợp tác với tình báo nước ngoài do thất vọng về tình hình chính trị của Liên Xô. Thời điểm bước ngoặt được cho là việc quân đội Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc năm 1968. Nhiều người đã nghiêm túc đánh giá các chính sách của Liên Xô, trong số đó có không ít sĩ quan của cơ quan tình báo.
Nhưng cũng có một phiên bản khác, theo đó Oleg đã được tuyển dụng vào những năm 60 trong chuyến công tác đầu tiên tới Đan Mạch. Ông ta quyết định đến thăm Thụy Điển, nơi các nhà tình báo bị nghiêm cấm. Tại Thụy Điển, ông ta đã đến thăm một nhà thổ, nơi đang diễn ra cuộc truy quét của cảnh sát. Oleg bị bắt nhưng lại được thả, họ để ông ta được thăng tiến trong sự nghiệp rồi sau đó mới sử dụng.
Dù vậy, vào giữa những năm 70, Oleg đã tích cực cộng tác với tình báo nước ngoài. Năm 1973, ông ta trở thành phó ban thường trú của KGB tại Đan Mạch và năm 1976 là trưởng ban. Cũng tại đây, Oleg lúc đó đã có gia đình lâu năm, đã ngoại tình. Người tình mới là Leyla Aliyeva, thư ký từng làm việc ở Tổ chức Y tế thế giới WHO tại Copenhagen. Chuyện tình lãng mạn của họ phát triển nhanh chóng và không lâu sau Oleg quyết định ly dị vợ. Vào những năm đó, việc ly hôn có thể đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp của một nhân viên KGB, nhưng điều đó không ngăn cản được người đàn ông này.
Nữ hoàng Anh trao Huân chương Thánh Michael cho Gordievsky.
Năm 1978, Oleg được chuyển về Moscow, làm tại văn phòng trung tâm của KGB và 4 năm sau đó được đào tạo để đến cơ quan thường trú Liên Xô ở London. Nhiều nhà tình báo giàu kinh nghiệm hơn muốn đến nơi này, nhưng vì lý do nào đó mà họ không được phép vào Anh. Sau đó mới rõ là họ gặp khó khăn về thị thực bởi Oleg. Người Anh muốn Oleg đứng đầu cơ quan thường trú tại London và họ đã cản đường các đối thủ khác bằng cách từ chối cấp thị thực. Kết quả là ban lãnh đạo buộc phải bổ nhiệm Oleg làm phó ban thường trú vì không có ứng viên nào khác và ông ta đã được đào tạo bài bản.
Chính xác về những gì Oleg truyền đạt cho người Anh vẫn còn là bí mật, điều này sẽ chỉ được biết nếu kho lưu trữ tình báo được giải mật. Đến năm 1985 KGB hiểu rõ rằng, có một "chuột chũi" đang hoạt động tại PGU - một điệp viên bí mật của tình báo đối ngoại đã truyền thông tin mật cho phương Tây. Tuy nhiên, bản thân Oleg lại không bị nghi ngờ.
Không ai biết được điều gì đã diễn ra trong suy nghĩ của kẻ phản bội suốt từng ấy năm: tâm lý căng thẳng, lo sợ thất bại, cân nhắc những phương án để được cứu thoát. Ngày càng có nhiều điệp viên Liên Xô bất hợp pháp bị các cơ quan tình báo nước ngoài theo dõi và buộc phải bỏ trốn hoặc bị bắt. Oleg hiểu rằng cơ quan phản gián Liên Xô đang ngày càng tiến đến gần mình hơn. Mùa xuân năm 1985, Oleg được triệu tập về Moscow. Dù chưa bị KGB nghi ngờ nhưng ông ta vẫn quyết định bỏ trốn.
Một kế hoạch bỏ trốn đã được người Anh cẩn thận vạch ra từ trước đó. Một mảnh giấy hướng dẫn được dán vào bìa một cuốn sách trong nhà của Oleg. Để ra tín hiệu cho người phụ trách hỗ trợ, ông ta phải có mặt vào một thời gian nhất định tại địa điểm quy ước và đứng ở mép vỉa hè gần một cột đèn, cầm trên tay một chiếc túi nhựa. Tín hiệu SOS đã được nhận.
Sau đó, ông ta phải rời khỏi nhà vào một thời điểm nhất định và thoát khỏi sự giám sát ở bên ngoài. Và Oleg đã thực hiện được điều này trong khi chạy bộ buổi sáng. Và ông ta được đón bằng một chiếc ô tô biển số ngoại giao của Anh. Họ cho ông ta vào cốp xe, để lại đó thuốc an thần, bình đựng nước tiểu và một tấm phủ bằng nhôm. Kẻ phản bội phải ở lại trong đó để không bị lính biên phòng tìm ra bằng máy dò hồng ngoại.
Chiếc xe lao tới Vybor gần biên giới Phần Lan. Lính biên phòng không được quyền kiểm tra xe mang biển số ngoại giao, vì vậy Oleg đã đến Phần Lan mà không gặp bất kỳ trở ngại nào, rồi từ đây bay đến London. Cô vợ Leyla và hai con gái của kẻ phản bội vẫn ở lại Moscow. Tình báo Anh đã kiến nghị việc cho phép gia đình ông ta được rời khỏi Liên Xô. Nhưng bởi thực tế phức tạp thời đó, Liên Xô thường không tham gia đàm phán về việc đoàn tụ gia đình của những kẻ tội phạm. Mà Oleg không chỉ là một tên tội phạm, hắn còn là kẻ phản bội Tổ quốc.
Kết cục
Khi có mặt ở Anh, kẻ phản bội đã trả lời phỏng vấn, mua nhà, bắt đầu viết sách bôi nhọ KGB và chế độ cộng sản. Tại Liên Xô, Oleg bị kết án tử hình vắng mặt và bị tịch thu tài sản vì tội phản quốc. Đối với hắn thì việc tịch thu không đáng sợ: tất cả số tiền thù lao nhận được đã được gửi ở các ngân hàng nước ngoài. Chỉ có thể tước đoạt tài sản từ người vợ và các con gái, nhưng điều này cũng không thể, vì Leyla Gordievskaya đã nhanh chóng đệ đơn ly hôn.
Chỉ đến năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ, vợ và các con gái của Oleg mới được phép rời sang Vương quốc Anh, nhưng cuộc sống chung của họ không suôn sẻ. Leyla đã kiện chồng cũ để đòi bất động sản và thậm chí một phần tiền trợ cấp được chính phủ Anh cấp cho hắn.
Oleg đã chuyển những thông tin có giá trị cho các cơ quan của Anh trong hơn 10 năm. Hắn đã gây thiệt hại rất lớn cho Liên Xô khi để tình báo Anh tiếp cận những tài liệu mật chứa thông tin về các kế hoạch của ban lãnh đạo Liên Xô.
Nước Anh khi đó đã trao tặng Huân chương Thánh Michael cho kẻ phản bội.
Oleg Gordievsky sống ở ngoại ô London, hoàn toàn đơn độc, bị con cái bỏ rơi và từ lâu đã không được bất kỳ cơ quan tình báo nào quan tâm. Rượu vang rẻ tiền và những cuộc phỏng vấn hiếm hoi mà hắn yêu cầu trả phí 50 bảng Anh là tất cả những gì còn lại của kẻ phản bội vào cuối đời. Hắn như quả chanh đã bị phương Tây vắt kiệt rồi vứt bỏ.
Sự hy sinh thầm lặng của các nữ điệp viên Liên Xô Ngày Quốc tế Phụ nữ vừa qua đi, cũng là dịp để tưởng nhớ các nữ anh hùng trên "mặt trận vô hình". Cho đến nay, tiểu sử của nhiều nữ điệp viên Liên Xô vẫn được coi là bí mật quốc gia. Xin trân trọng giới thiệu câu chuyện của Đại tá tình báo đã nghỉ hưu Oleg Kholodov về số phận...