Hy vọng tượng không phải đội nón, mặc áo mưa
Hàng loạt thông tin đau lòng về sự chậm trễ trong việc bảo vệ di sản dồn dập diễn ra trong thời gian gần đây cho thấy việc quản lý di sản có nhiều chuyện phải bàn.
Từ việc người dân làng cổ Đường Lâm – ngôi làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước trao bằng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia từ năm 2005, viết đơn xin “trả lại di tích” cho tới cảnh phải mặc áo mưa cho tượng trong chùa Một Cột – Diên Hựu. Hay xa hơn nữa là những vụ phá chùa, phá đình đi xây mới như vụ chùa Trăm Gian, đình Ngu Nhuế… khiến dư luận hết sức lo ngại. Phóng viên ANTĐ Cuối tuần đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Đặng Văn Bài – nguyên Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa (Bộ VH-TT&DL), hiện là Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam về vấn đề này.
- Ông có thấy những để xảy ra những câu chuyện đáng buồn trên là có sự chậm trễ trong việc quản lý di tích?
- Đúng là chúng ta đã làm quy hoạch quá chậm trễ. Chẳng hạn như việc ở Đường Lâm khiến tôi thấy vô cùng tiếc nuối. Ngay từ khi còn giữ chức vụ Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa, tôi đã tham mưu cho Bộ Văn hóa (nay là Bộ VH-TT&DL) công nhận Đường Lâm là di tích quốc gia trên nguyên tắc sự đồng thuận của nhân dân, bởi nơi đây vẫn gắn liền với sinh hoạt của người dân. Điều đó đã được cụ thể bằng bản “Quy hoạch tổng thể Bảo tồn và phát huy giá trị làng cổ Đường Lâm gắn với phát triển du lịch”. Tiếc là công tác triển khai quá chậm trễ.
- Theo ông cần phải làm gì để giải bài toán bảo tồn di tích và đảm bảo cuộc sống sinh hoạt của người dân sống tại di tích?
- Hiện ở nước ta đang có hai mô hình tương tự Đường Lâm. Một là khu phố cổ Hội An, hai là Phước Tích (Thừa Thiên – Huế). Ở Hội An, thì người dân có thể sống đàng hoàng và giàu lên nhờ biết phát huy giá trị của di sản. Họ coi di sản Hội An là của chính họ, gắn bó với đời sống của chính họ. Còn như ở Phước Tích, ở đó đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở VH-TT&DL, với UBND huyện, xã, Ban quản lý di tích với sự chỉ đạo và thực thi nghiêm túc. Phước Tích còn nhận được một số sự án của JICA (Nhật Bản), họ hướng dẫn phục hồi, bán sản phẩm cho khách du lịch. Trong các kỳ Festival Huế, Phước Tích là một điểm đến được khách du lịch ưa thích, người dân ở Phước Tích cảm nhận thấy rõ lợi ích của việc được công nhận làng cổ. Đem hai địa phương này ra để làm ví dụ so sánh có thể là khập khiễng khi đó là những nơi đã có kinh nghiệm nhiều năm làm du lịch. Nhưng tôi cho rằng Đường Lâm cũng cần phải học tập hai nơi này ở nhịp sống đô thị. Bởi nhịp sống của đô thị như Hội An là một cách bảo tồn di sản rất đúng. Càng ngày người Hội An càng tự hào họ là công dân của Hội An. Từ đó họ tự nguyện tham gia vào việc bảo tồn các di sản. Chứ nếu vẫn mãi quẩn quanh chuyện thiếu nơi ăn chốn ngủ, mấy ai có nổi tâm trí mà bảo vệ di sản.
- Ông đánh giá như thế nào về công tác bảo tồn di tích của Hà Nội?
Video đang HOT
- Hà Nội cũng có nhiều di tích được bảo tồn khá tốt như đền Quán Thánh, Ngọc Sơn, Văn Miếu, Quốc Tử Giám, song vẫn còn một số di tích như chùa Trăm Gian, Đường Lâm, phố cổ, Cổ Loa… công tác bảo tồn còn yếu kém. Hà Nội cần học tập Huế, Hội An.
– Theo ông đâu mới thực sự là vấn đề của di sản ở Hà Nội?
- Trước tiên phải khẳng định, di sản là của tập thể, của người dân. Vì mục tiêu chung, cả chính quyền và người dân đều phải bảo vệ. Nhưng cũng phải nói ngược lại rằng, chính quyền không thể bảo tồn di tích mà ngăn cấm người dân thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt của mình. Một mặt cần sự tự nguyện của người dân, mặt khác phải có những sự hỗ trợ kịp thời, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của người dân. Đó là mối quan hệ đa chiều giữa người làm quản lý di sản văn hóa cũng như người trực tiếp sinh sống với di sản.
- Vậy, Hà Nội cần phải làm gì để người dân không phải từ chối nhận di sản và tượng không phải mặc áo mưa?
- Đó là cơ chế đãi ngộ với di tích. Một khi đã xếp hạng thì cần tạo sự đồng thuận bằng những cơ chế giúp đỡ. Bên cạnh đó là công tác tuyên truyền để người dân nhận thức rõ về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ di sản. Cuối cùng, cơ quan quản lý phải nhìn lại mình, phải thay đổi lại phương thức hoạt động. Ở đâu mà người dân và Nhà nước đồng tâm, ở đó chắc chắn sẽ thành công. Tôi tin rằng Hà Nội sẽ nhanh chóng có chuyển biến làm hồi sinh các di sản. Hy vọng sẽ không còn cảnh người dân viết đơn xin rút di sản, tượng ngồi trong chùa phải mặc áo mưa nữa.
Theo ANTD
Chùa Một Cột trong ký ức một thời khó khăn, khói lửa
Người Pháp chiếm Hà Nội năm 1883, phá thành Hà Nội năm 1889 để xây lại nhiều đường phố theo lối Tây. Nhiều đình chùa bị san phẳng, dịch chuyển để làm đường sá. Khu vực quanh chùa Một Cột biến đổi nhiều nhưng riêng ngôi chùa được giữ lại...
Ngôi chùa "qua" được thử thách đầu tiên này là bởi sau những tranh luận gay gắt của các nhà khoa học người Pháp trong Viện Viễn đông bác cổ (EFEO) với những quan chức thực dân, Chùa được đưa vào danh sách những công trình cần bảo vệ đặc biệt. Hồ sơ lưu trữ được xây dựng công phu và là bài học mẫu mực cho công tác bảo tồn di sản sau này. Mặc dù việc quản lý sử dụng các ngôi chùa do các nhà sư Việt Nam khả kính, uyên bác trụ trì nhưng công việc trùng tu, sửa chữa tiến hành theo một trình tự nghiêm cẩn. Ví như những ngôi bảo tháp trong chùa Trấn Quốc do đích thân Giám đốc EFEO sắp đặt và định vị trong bản vẽ của KTS Luis Bezacier. Chùa Một Cột cũng ở tình trạng tương tự.
Bản vẽ ghi chùa Một Cột do KTS Luis Bezacier thực hiện đầu thế kỷ 20 (ảnh phải). Liên Hoa Đài năm 1952 (ảnh trái)
Trải ngàn năm, chùa xây sửa nhiều lần nhưng đến cuối thế kỷ 19 vẫn nguyên dáng vẻ. Chùa được trùng tu lớn vào khoảng năm 1840-1850. Năm 1920-1922, Charles Batteur - giáo sư Mỹ thuật Kiến trúc của EFEO dựa trên các tư liệu cũ để tôn tạo lại Chùa sau khi các đường phố đã thay đổi diện mạo khung cảnh chung quanh. Ông khôi phục những hoa văn góc cạnh và xây quanh hồ nước một bờ tường thấp đã bị xóa hết dấu vết.
Đài Liên Hoa tọa trên cột đá được sửa chữa lại năm 1955 do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm và giữ nguyên hình dáng cho đến ngày nay, khi tổ chức Kỷ lục châu Á ghi nhận kỷ lục "Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất" cho chùa Một Cột.
Đến những năm 1980, khi quần thể kiến trúc quảng trường Ba Đình, Bảo tàng Hồ Chí Minh hoàn thành thì ngôi chùa vẫn giữ nguyên vậy nhưng cảm giác nhỏ đi nhiều do đứng cạnh công trình kiến trúc lớn. Nhiều người Hà Nội vẫn còn nhớ cụ trụ trì hiền lành điềm đạm vừa lo Phật sự lại lo chữa bệnh cho nhiều người. Điều lạ nhất là, trong những ngày Hà Nội nghèo lắm, không có hòm công đức nhưng cảnh chùa lúc nào cũng sạch sẽ ấm cúng. Trụ trì chùa lúc nào cũng toát lên cái dáng vẻ an nhiên tự tại (cụ mất đã lâu).
Ngày ấy thứ gì cũng hiếm hoi, khó có thể lo toan, xoay sở để sửa sang lớn. Mái chùa lợp ngói ta như bất cứ ngôi chùa nào, mỗi trận mưa đều dột góc này góc kia, khi gió tạt hướng này, đổi hướng khác. Nếu mái ngói chèn không kỹ thì chỉ con mèo chạy đi chạy lại là xô nên thông thường lúc này, mỗi lúc trời mưa, trong chùa đều có cây sào tre để đứng dưới chọc lên chỉnh lại ngói. Chỗ nào dột quá thì nhà chùa vẫn ra phố Ngõ Gạch mua vài cân xi măng đắp lại. Mái không dột thì rui mè, đòn tay, vì kèo bằng gỗ vẫn khô ráo nên khó hỏng, nếu có hỏng thì cũng chỉ thay tỉa vài thanh... Hàng trăm ngôi chùa quanh Hà Nội được bảo vệ, duy tu như thế qua nửa thế kỷ dầu dãi nắng mưa, vượt qua những năm đạn bom, ngói tan gạch nát.
So với bản vẽ ghi, có thể thấy mái hiên Tam Bảo có cột đỡ, nay đã được thay mới bằng con son.
Mươi năm gần đây, nhiều ngôi chùa quanh Hà Nội kêu cứu vì dột nát, mà đã dột thì phải phá đi làm lại. Làm lại thì phải làm mới và bổ sung nhiều nội dung cho hợp thời như phòng ốc tiện nghi, cổng ngõ cao lớn, thiết bị nội thất hiện đại, lại lắp cả điều hòa cho mát mẻ, xây cả nơi để xe máy, ô tô...
Chuyện này làm ta nhớ đến khu bảo tồn 36 phố phường. Có ai muốn bảo tồn để mà khư khư ôm cái nhà cổ chật chội, bất tiện. Nhà phố cổ thì hạn chế chiều cao và phải lợp mái ngói thì mở rộng, cơi nới thêm tầng cách nào... Vậy nên mới xuất hiện những sáng kiến làm cho mái dột, tường nứt để được xác nhận "nhà nguy hiểm, có thể sập đổ bất cứ lúc nào" đi kèm cái đơn kêu cứu khẩn cấp. Thế là nhà được xây như ý, lại tránh được thủ tục xin phép xây dựng với điều kiện "phải có sự đồng ý của hàng xóm".
Trong chùa Một Cột, tượng Phật, chân nến, lư hương bằng đá mới chế tác được đặt ở sân chùa, phía sau là cung Mẫu với mái hiên ngói xô. Liên Hoa Đài có cánh cửa gỗ nhưng luôn mở, rất đông du khách chen chúc leo lên... Không hiểu việc đó có góp phần làm tổn thương di tích?
Những ngày gần đây, báo chí đưa nhiều tin về chùa Một Cột dột nát, gây chú ý của công luận. Nhà chùa vốn lo lắng đã lâu nay lại có ảnh mặc áo mưa, đội nón cho tượng, người đọc cũng... rùng mình. Lại được nghe các lãnh đạo họp báo công khai các bước tiến hành "đại tu", thủ tục rất thận trọng. Có lẽ, người dân ưng nhất là tin quận Ba Đình chủ động tổ chức hội thảo vào giữa tháng 5 về việc này. Nhiều người tạm yên lòng. Nhưng xem những ý kiến trao đổi trên báo chí, các chuyên gia vẫn e ngại vì nhiều lời than vãn nhưng không mấy kế sách được nêu ra. Để chùa sập mà vẫn ngồi bàn hoặc chưa đến mức không thể khắc phục đã vội dỡ ra làm mới như chùa Trăm Gian... đều là hạ sách.
Nhóm Kiến trúc sư tình nguyện, là thành viên Hội KTS Việt Nam, đang sống và làm việc ở Hà Nội, bày tỏ tâm nguyện sẵn sàng tới chùa, cùng các cơ quan quản lý khảo sát, đánh giá, mô tả thực trạng và các đề xuất trùng tu cải tạo. Làm được như vậy thì việc sửa chữa Chùa mang lại nhiều niềm vui, hy vọng, đỡ phần nặng nề, lo lắng. Hẳn là ai yêu quý Hà Nội, yêu quý chùa Một Cột đều cùng nỗi niềm mong mỏi ngôi Chùa vốn được hình thành từ giấc mơ của vua Lý sẽ không còn bị ám ảnh bởi ác mộng do sự chậm trễ hay nóng vội.
Phía trong Tam Bảo, các chi tiết gỗ được giữ gìn cẩn thận nên màu sơn, nước gỗ vẫn còn rất mới (ảnh chụp ngày 10/5/2013)
Mùa Đông năm 1049, Vua Lý Thái Tông nằm mơ thấy Phật. Ngài dắt nhà vua lên ngồi tòa sen. Khi tỉnh dậy, Vua đem chuyện ấy nói với bề tôi. Có người cho rằng đó là điềm không lành. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, làm toà sen của Phật Quán Âm trên cột đá ở giữa ao như hình ảnh đã thấy trong mộng. Xây chùa xong, các nhà sư đi vòng quanh tụng kinh cầu cho nhà Vua trường thọ. Vì thế chùa có tên gọi là Diên Hựu, tức phúc lành lâu dài.
Theo Dantri
Đằng sau một lá đơn nghịch lẽ thường! Mấy ngày qua, dư luận ở làng Đường Lâm (xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội) xôn xao về lá đơn đòi trả lại danh hiệu Làng Việt cổ có chữ ký của 78 người, thuộc 60 hộ dân trong xã. Nguyên nhân của chuyện "chưa từng có" này được ghi rõ ràng trong đơn là sống trong làng cổ quá khổ sở,...