Huyền thoại này từng phục vụ 3 thế hệ binh sĩ Mỹ
Được sử dụng phục vụ 3 thế hệ binh lính trong suốt 70 năm – có lẽ hiếm có vũ khí nào lại có ảnh hưởng to lớn tới lịch sử chiến tranh của Mỹ như huyền thoại súng trường 1903 Springfield.
Vào ngày 17.11.1915, thiếu tá Smedley Butler cùng với 1 nhóm lính thủy đánh bộ Mỹ tiếp cận đồn Riviere. Đây là 1 cơ sở quân sự cũ của Pháp tại Haiti và đang bị chiếm giữ bởi lực lượng phiến quân Cacos. Thiếu tá Butler cùng với các đồng đội có nhiệm vụ quét sạch lực lượng này. Nhóm 100 binh sĩ được chia ra: 1 phần bao vây khu vực để cắt đứt đường thoát thân của phiên quân còn những người còn lại chuẩn bị đánh chiếm đồn. Sau khi tất cả đã vào vị trí, Butler thổi còi, báo hiệu cuộc tấn công bắt đầu.
Cuộc tấn công đã làm lực lượng Cacos bất ngờ. Sau khi nhanh chóng tiếp cận tường, Butler và đồng đội phát hiện 1 đường hầm nhỏ dẫn vào bên trong. Cùng với trung sĩ Ross Iams và binh nhì Sam Gross, vị thiếu tá đã đi qua hầm xông vào trong nhằm mở đường cho các đồng đội ở bên ngoài. Ngay lập tức, cả 3 người bị bao vây bởi những tên phiến quân. Thế nhưng, đây là 1 cuộc chiến không hề cân sức: kẻ địch chỉ có dao rựa còn Butler, Iams và Gross lại đang cầm trên tay súng trường Springfield mẫu 1903 – “hung thần” của người Mỹ vào thời điểm đó. Những đợt tấn công tuyệt vọng của phiến quân liên tục bị đẩy lùi. Ngay cả khi hết đạn, cả 3 vẫn tiếp tục đánh tay đôi bằng lưỡi lê, mở đường cho đồng đội xông vào. Chênh lệch là quá lớn, cuộc tấn công kết thúc dễ dàng với việc toàn bộ phiến quân Cacos bị tiêu diệt. Vì sự dũng cảm trong chiến đấu, 3 người lính tiên phong được trao tặng Huân chương Danh dự. Đối với thiếu tá Butler, đây là huân chương thứ 2 của anh.
Súng trường 1903 Springfield
Khẩu súng trường Springfield mà các người Mỹ sử dụng trong cuộc tấn công ấy bắt đầu thời kỳ huy hoàng của mình vào đầu thế kỉ 20. Trước Springfield, súng trường tiêu chuẩn của quân đội Mỹ là khẩu Krag-Jorgenson – khẩu súng trường nạp đạn thủ công sử dụng băng đạn có xuất xứ từ Na Uy. Trong cuộc chiến với Tây Ban Nha, dù dành chiến thắng, người Mỹ vẫn phải thừa nhận rằng Krag-Jorgenson quá yếu thế so với súng trường Mauser của binh sĩ Tây Ban Nha sử dụng. Theo đó, cỡ đạn 7,62×58,8mm của Krag-Jorgenson thiếu sức mạnh, súng cũng có tầm bắn ngắn hơn so với đối thủ có xuất xứ từ Đức. Không chỉ có vậy, thiết kế hộp đạn “cứng” khiến Krag-Jorgenson lép vế về tốc độ bắn trước 1 Mauser có thể nạp đạn bằng các kẹp 5 viên đạn tháo rời. Mauser nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn của súng trường thế giới. Điều này thể hiện qua việc lính Mỹ thường nhanh chóng bị áp chế về hỏa lực trong các cuộc xung đột khác.
Súng trường Krag-Jorgenson
Hiểu được điều đó, quân đội Mỹ nhanh chóng nghiên cứu loại súng thay thế Krag-Jorgenson. Vào năm 1900, nhà sản xuất súng Springfield (sau này trở thành công ty nghiên cứu và sản xuất vũ khí cỡ nhỏ chính của Mỹ) đã cho thử nghiệm mẫu súng đầu tiên tại Massachusetts. Trong quá trình thử nghiệm, 1 số thay đổi nhỏ đã được áp dụng. Hai năm sau đó, súng của Springfield đã được thực nghiệm tại đồn Riley&Leavenworth tại Kansas. Kết quả thử tốt tới mức vào 19.06/1903, loại súng này đã trở thành “Súng trường tiêu chuẩn Mỹ, model 1903, sử dụng đạn .30″. Tuy nhiên, súng thường biết đến với cái tên phổ biến hơn là 03 Springfield. Ngay sau đó, việc sản xuất Krag-Jorgenson bị đình chỉ, súng trường 03 Springfield được bắt đầu sản xuất đại trà với năng suất ban đầu là 225 khẩu/ngày. Chỉ trong năm đầu tiên, nước Mỹ đã cho ra đời 30,000 khẩu súng thế hệ mới.
Trong vài năm tiếp theo, quân đội ra áp dụng rất nhiều cải tiến cần thiết cho 03 Springfield nhưng vẫn giữ nguyên thiết kế ban đầu của súng. Một trong số đó là sự thay đổi về lưỡi lê. Nguyên mẫu đầu tiên của dòng súng này sử dụng 1 thanh nhọn mỏng được gắn bên dưới nòng súng. Thiết kế này đã khiến tổng thống Mỹ lúc đó là Theodore Roosevelt – 1 người có đam mê cháy bỏng về súng – “gai mắt”. Vào 1 ngày, khi đang gặp gỡ viên tướng người Anh có tên Frazier tại Nhà Trắng, tổng thống Roosevelt đã cho người mang 2 khẩu 03 Springfield và Krag-Jorgenson được lắp lưỡi lê lên.
Binh sĩ Mỹ với nguyên mẫu 1903 Springfield sử dụng lưỡi lê nhọn
Video đang HOT
Đứng trong phòng Bầu dục, ông Roosevelt đã hỏi viên tướng người Anh về sự chắc chắn của lưỡi lê nhọn này. Sau khi ông Fraizer khẳng định rằng lưỡi lê mới có thể ngang bằng với lưỡi lê cũ, vị tổng thống đã đưa ông khẩu Springfield, còn bản thân thì chọn khẩu Krag-Jorgenson. Với lưỡi lê đã được gắn, vị tướng vào thế phòng thủ, đợi chờ ngài tổng thổng làm “vài đường” khởi động. Bất ngờ, ông Roosevelt tấn công và chỉ với 1 đòn, lưỡi lê nhọn của Springfield đã gãy làm đôi. Khi mà tướng Frazier vẫn còn kinh ngạc, vị tổng thống đam mê súng ống đã viết thử cho nhà sản xuất Springfield, bày tỏ sự không đồng tình với mẫu lưỡi lê mới. Ngay lập tức, lưỡi lê nhọn bị ngừng sản xuất, các khẩu Springfield đợc chuyển đổi lưỡi lê truyền thống. Vì vậy, những khẩu Springfield nguyên bản, sử dụng lưỡi lê nhọn trở thành một bảo vật đắt giá với các nhà sưu tầm hiện nay.
Một thay đổi lớn khác là về cỡ đạn. Ban đầu, Springfield sử dụng cỡ 7,62×65mm với đầu đạn tròn. Tuy nhiên vào năm 1906, loại đạn 7,62×63mm với đầu đạn nhọn, cho tốc độ nhanh hơn và giảm trọng lượng, đã được giới thiệu và trở thành đạn tiêu chuẩn cho Springfield. Đạn 7,62×63mm đã biến 03 Springfield trở thành 1 khẩu súng trường mang đẳng cấp thế giới, ngang hàng với mọi đối thủ. Thậm chí, đến tận ngày nay, loại đạn này vẫn còn được quân đội Mỹ tin dùng nhờ sự ưu việt của mình.
Đạn cỡ 7,62×65mm (trên) và cỡ 7,62×63mm 9 (dưới)
Tuy nhiên, sự “ngang hàng” này cũng mang đến rắc rối cho chính phủ Mỹ. Vào giữa năm 1904, sau khi xem xét thiết kế của 03 Springfield, nhà sản xuất súng Mauser đã xác định rằng công ty Springfield đã vi phạm bằng sáng chế liên quan đến súng trường cùng tên của hãng. Washington đã chủ động gửi thư cho nhà sản xuất súng của Đức, đề nghị gặp gỡ nhằm thảo luận vấn đề này. Một tháng sau, phía Mauser đã chính thức đưa ra cáo buộc Mỹ vi phạm 2 lỗi liên quan đến kẹp đạn rời và 5 lỗi khác liên quan đến mẫu súng 03 Springfield.
Binh sĩ Tây Ban Nha với súng trường Mauser của Đức
Sau nhiều tháng thương lượng, chính phủ Mỹ đã buộc phải nộp phạt rất nặng: Mauser tính 75 cent trên mỗi khẩu súng được chế tạo, đồng thời đòi thêm 50 cent cho mỗi 1000 kẹp đạn được sản xuất. Tổng cộng, phía Mỹ đã phải trả số tiền lên tới 200,000 USD. Tuy nhiên, bê bối vi phạm bằng sáng chế không dừng lại ở đó. Ba năm sau, một công ty cũng từ Đức tố cáo Washington sao chép thiết kế đạn mũi nhọn. Về phía mình, lần này chính phủ Mỹ đã phủ nhận cáo buộc trên, dẫn đến việc bị kiện ra tòa chỉ vài ngày trước khi Thế chiến 1 bắt đầu. Vào năm 1917 khi Mỹ quyết định tham chiến, vụ kiện đã bị “chìm xuống” còn bằng sáng chế của công ty Đức nọ bị tịch thu. Những tưởng, người Mỹ đã tránh được 1 phen mất tiền thì vào năm 1920, vào thời điểm chiến tranh đã kết thúc được 2 năm, phía Đức đã khởi kiện lại vụ án này. Một tòa án của Mỹ cho rằng việc thu giữ bằng sáng chế đã vi phạm một hiệp định lúc đó và buộc chính phủ phải nộp phạt 412,000 USD. Như vậy, 03 Springfield đã tiêu tốn của người Mỹ 612,000 USD (chưa tính phí nghiên cứu, phát triển và sản xuất) để các binh sĩ nước này có trên tay 1 khẩu súng trường “đẳng cấp thế giới”.
Thế nhưng, trái với những vụ kiện tại tòa vốn diễn ra trong nhiều thập kỷ, việc đưa 03 Springfield vào chiến trường được triển khai gần như lập tức. Trong cuộc Cuộc nổi dậy Philippines, mẫu súng mới đã thay thế cho các khẩu Krag Jorgenson và các khẩu Springfield đời cũ. Ngay lần đầu được “thử lửa”, 03 Springfield đã nhanh chóng được binh lính tin dùng nhờ uy lực và khả năng nạp đạn nhanh chóng. Trước đó, các vũ khí cá nhân của quân đội Mỹ tại Philippines không thể cản nổi các chiến binh Moro – những “chiến thần” có khả năng chịu được nhiều phát đạn trước khi gục ngã. Ngoài ra, 03 Springfield cũng được sử dụng trong cuộc đổ bộ của Mỹ tại Vera Cruz (1914) và cuộc săn lùng cướp biển Mexico Pancho Villa (1916).
Kẹp đạn 5 viên khiến cho súng trường Springfield có tốc độ bắn vượt trội so với các loại súng cũ
Ngoài các cuộc xung đột nhỏ, súng trường Mỹ cũng đã góp mặt trong Thế chiến 1. Dù đã mở rộng và gia tăng sản xuất, thế nhưng các nhà sản xuất cũng không thể đáp ứng kịp số lượng binh sĩ khổng lồ được gọi nhập ngũ. Một biện pháp tình thế đã được chính phủ Mỹ lựa chọn là Enfield – phiên bản Mỹ của súng trường Anh mẫu 1914. Dù chỉ là hàng “thay thế”, tuy nhiên Enfield lại được chế tạo nhiều hơn cả Springfield: vào thời điểm chiến tranh kết thúc, cứ 1 khẩu Springfield thì lại có 3 khẩu Enfield. Tuy nhiên, 03 Springfield vẫn là súng trường tiêu chuẩn của quân đội cả trong và sau chiến tranh.
Trong 4 năm chiến tranh, mặc dù có vẻ được sử dụng ít hơn Enfield, Springfield vẫn được cải tiến kỹ thuật nhiều lần. Một trong những thay đổi táo bạo nhất là Pederson – phụ kiện thay thế cần nạp đạn thủ công, giúp súng bắn bán tự động với 1 băng đạn rời 40 viên cỡ nhỏ hơn 7,62×63mm. Về lý thuyết, phụ kiện này sẽ tăng đáng kể hỏa lực tầm gần cho người sử dụng. Theo đó, chỉ cần 1 động tác thay cần nạp đạn đơn giản và nhanh chóng, binh sĩ sẽ có 1 khẩu Springfield bắn tự động. Tuy nhiên, súng vẫn khai hỏa 1 viên 1 nên tốc độ bắn sẽ phụ thuộc tốc độ kéo cò của xạ thủ. Được biết, nếu Thế chiến 1 kéo dài thêm vài tháng, phụ kiện này sẽ được sử dụng vào chiến dịch tiến công mùa xuân của Mỹ. Thế nhưng, chuyện đó đã không xảy ra và Pederson đã không kịp chứng minh được tính cần thiết của mình.
Penderson – phụ kiện giúp 03 Springfield bắn tự động
Kết thúc cuộc chiến, chỉ có 65,000 phụ kiện được sản xuất. Tất cả đều nằm trong kho cho đến khi chính phủ quyết định tiêu hủy vào năm 1931 để tránh rơi vào tay các băng đảng tội phạm. Hầu hết số phụ kiện này bị nấu chảy, một số bị đập vỡ và trộn lẫn với xi măng để xây vỉa hè. Hiện này, những phụ kiện còn nguyên vẹn đang nằm trong các bộ sưu tập cá nhân và các bảo tàng.
Sau Thế chiến 1, Mỹ chỉ sản xuất cầm chừng 03 Springfield và các linh kiện để phục vụ cho việc thay thế, sửa chữa. Khẩu súng này tiếp tục được sử dụng trong các cuộc xung đột nhỏ mà Mỹ tham gia trong những năm 20 và 30. Tuy nhiên, theo quy luật phát triển, quân đội đã buộc phải tìm kiếm người kế nhiệm Súng trường Mỹ và người được chọn là M1 – mẫu súng được phát triển bởi nhân viên công ty Springfield có tên John Garand. M1 khiến hỏa lực tăng đáng kể khi có thể bắn liên tiếp 8 viên (phụ thuộc vào tốc độ kéo cò của xạ thủ). May mắn thay, số phận của Springfield đã được kéo dài do cuộc Đại suy thoái đã khiến chính phủ Mỹ không có nhiều tiền để đưa M1 trở thành vũ khí tiêu chuẩn cho quân đội.
Thế nhưng, Thế chiến 2 đã rung hồi chuông báo tử cho khẩu súng huyền thoại này. Khi Mỹ tham chiến, M1 Garand bắt đầu được sản xuất ồ ạt và nhanh chóng được binh sĩ tin dùng. Dù lép vế trước người kế nhiệm, Springfield vẫn tiếp tục được sử dụng. Lí do là trong tháng đầu tiên, số lượng M1 sản xuất không kịp đáp ứng nhu cầu. Nhiều binh sĩ tại các chiến trường khác nhau vẫn chiến đấu với khẩu 03 Springfield trên tay. Thêm vào đó, ban đầu M1 không bắn được lựu đạn súng trường nên 1 binh sĩ trong đội sẽ mang theo 1 khẩu Springfield với các phụ kiện cần thiết để làm việc đó.
Nhà phát minh John Garand với khẩu súng trường mang tên mình
Để tiếp tục sử dụng Springfield, sau 1 vài lần điều chỉnh, quân đội Mỹ đã cho ra đời M1903A3 Springfield (các nhà sưu tập và sử học ngày nay goi là 03A3) và tiếp tục sản xuất với số lượng lớn. Thay vì Springfield, công ty vũ khí Remington và công ty sản xuất máy đánh chữ Smith Corona đã đảm nhận công việc này. Đây là 1 mũi tên trúng 2 đích vì một mặt vẫn “tái sử dụng” được thiết kế 03 Springfield có sẵn, một mặt giúp các cơ sở chế tạo khác “rảnh tay” để sản xuất M1 và nhiều mẫu súng hiện đại khác. Ngoài ra, để tận dụng lượng súng cũ tồn kho, các khẩu Springfield cũng đợc phân phát tự do cho lực lượng đồng minh.
Một vai trò nổi tiếng khác của huyền thoại 03 trong cuộc chiến là bắn tỉa. Khác với các binh sĩ thông thường, các xạ thủ bắn tỉa không tác chiến tầm gần – nơi tốc độ bắn là tất cả. Chỉ với vài thay đổi nhỏ cùng với ống ngắm quang học, phiên bản M1903A4 đã trở thành 1 “hung thần” chiến trường.
Binh sĩ Mỹ với súng bắn tỉa M1903A4 Springfield
Khi mà Thế chiến 2 kết thúc, thời đại của Springfield đã chính thức chấm dứt. Trong các phiên bản của Springfield, chỉ còn mẫu bắn tỉa 03A4 tiếp tục được sử dụng với vai trò súng trường bắn tỉa tiêu chuẩn hạn chế và được sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên và 1 số cuộc chiến khác. Tuy nhiên, dù được ít được sử dụng, quân đội vẫn in hướng dẫn kỹ thuật cho M1903A4 cho tới tận năm 1970. Điều này đồng nghĩa với việc, Springfield đã phục vụ 3 thế hệ binh lính Mỹ trong suốt 7 thập kỷ đầu của thế kỷ 20 – dài hơn bất kỳ khẩu súng trường nào khác. Đó cũng là kết thúc mĩ mãn cho 1 trong những tượng đài vĩ đại trong lịch sử súng trường nước này.
Theo Mai Đại (The National Interest)
Sức mạnh trọng pháo M777 khiến khủng bố IS chết khiếp
Khủng bố IS vô cùng hoảng sợ trước "hung thần" M777 khi những quả đạn pháo uy lực lớn bỗng nhiên từ đâu bay tới, dội vào đầu chúng.
Với sự điều động lực lượng lính thủy đánh bộ và binh sĩ Mỹ vào chiến trường Iraq và Syria để tiêu diệt khủng bố IS, cuộc chiến ở đây đã dễ dàng hơn rất nhiều. Tuy nhiên, khi sở hữu trong tay trọng pháo M777 Howitzer, quân Mỹ như "hổ thêm cánh" và khiến quân IS "phát khiếp".
Tại Syria, lính thủy đánh bộ Mỹ đã bắn xối xả tới 4.500 quả đạn pháo vào khủng bố IS để hỗ trợ quân nổi dậy và người Kurd chiếm lại thành phố Raqqa.
Kíp pháo thủ M777 chỉ cần 5 người.
M777 được 7 hoặc 8 thành viên kíp pháo điều khiển và trong tình thế khẩn cấp chỉ cần 5 người. Hệ thống pháo 155 mm do tập đoàn BAE phát triển có nhiều tính năng ưu việt. Nó có thể tấn công mục tiêu từ phạm vi 25 km, giúp đảm bảo an toàn cho kíp pháo thủ. Nếu sử dụng đạn rocket, tầm bắn của M777 tăng lên 30 km, theo Popular Mechanics.
Pháo M777 thay thế pháo M198 vào năm 2005 và có trọng lượng nhẹ hơn nhiều so với người tiền nhiệm. Pháo M198 nặng tới 7,1 tấn trong khi M777 chỉ nặng 4 tấn. Trọng lượng nhẹ là do M777 sử dụng nguyên liệu bằng titan. Điều này giúp M777 có thể được chở bằng xe tải ra chiến trường hoặc các loại máy bay như CH-53 Stallion, CH-47 Chinook hay MV-22 Osprey.
Mỗi phút M777 bắn được 2 phát đạn.
Khẩu M198 cần tới 10 phút để lắp đặt thì M777 mất chưa đầy 3 phút. Nó có thể bắn 2 viên một phút hoặc khi cần là 5 viên/2 phút bằng hệ thống khai hỏa điện tử rất chính xác. Quân Mỹ thậm chí có phiên bản M777 ER với tầm bắn vượt trội hơn, lên tới 65 km. Công nghệ mới giúp M777 bắn êm hơn, nạp đạn nhanh và độ chính xác cao hơn.
Nhờ trọng pháo M777, khủng bố IS bị tiêu diệt mà không hiểu "đạn từ đâu bay xuống đầu".
Theo Danviet
Mỹ - Nhật tập trận "nắn gân" Triều Tiên sau chuyến công du của Tổng thống Trump Mỹ và Nhật Bản hôm nay 16/11 đã tiến hành cuộc tập trận hải quân chung ở vùng biển gần bán đảo Triều Tiên ngay sau khi Tổng thống Donald Trump kết thúc chuyến công du đầu tiên tới châu Á. 3 tàu sân bay USS Ronald Reagan USS Theodore Roosevelt và USS Nimitz của Mỹ tập trận ở tây Thái Bình Dương...