Huyện Lạc Thủy: Người dân giữ vai trò chủ động
Hiện nay 13/13 xã của Lạc Thủy đã hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới (NTM) như: Hình thức tổ chức sản xuất, tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên, quy hoạch, điện nông thôn, bưu điện, giáo dục, hệ thống tổ chức chính trị xã hội, an ninh trật tự.
Thành công của XDNTM chỉ có được khi người dân giữ vai trò chủ động tham gia, ông Quách Tất Liêm – Chủ tịch UBND huyện Lạc Thủy phấn khởi cho biết.
Giai đoạn 2011 – 2015, huyện Lạc Thủy đã tranh thủ các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ xây dựng hạ tầng nông thôn, đồng thời có chính sách phù hợp, huy động được sự tham gia tích cực của cộng đồng XDNTM.
Về xây dựng cơ sở hạ tầng, tổng vốn hỗ trợ trực tiếp từ chương trình XDNTM và các dự án, chương trình khác được đầu tư lên tới hơn 3.253 tỷ đồng. Nhờ đó, hệ thông cơ sở hạ tầng như: đường giao thông, thủy lợi, chợ, trường học, nhà văn hóa, điện nông thôn, trung tâm văn hóa thể thao xã… đã từng bước được hoàn thiện. Để đẩy mạnh sản xuất, huyện đã xây dựng được 308 mô hình, qua đó, tổ chức tập huấn, chuyển giao KHKT về trồng trọt, chăn nuôi phát triển kinh tế hộ cho 22.590 lượt người tham gia. Nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả như: Chăn nuôi Dê, đưa các giống lúa chất lượng cao vào sản xuất, trồng Nấm, nuôi động vật hoang dã tại xã Đồng Tâm, mô hình trồng rau an toàn tại xã Thanh Nông…
Lễ khai hội Chùa Tiên, huyện Lạc Thủy. Ảnh: Tư liệu
Trao đổi với chúng tôi, ông Liêm cho biết thêm, trong 5 năm qua công tác tuyên truyền XDNTM được triển khai thường xuyên, liên tục, do vậy nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhiều chuyển biến đáng kể, người dân đã chủ động tham gia vào các nội dung của chương trình, hiến đất, góp công, góp của để xây dựng các công trình NTM.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được triển khai tích cực, đến nay có 80% gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa, 64,5% thôn văn hóa. Thiết chế văn hóa, thể dục thể thao, Đài truyền thanh từ huyện đến cơ sở từng bước được nâng cấp theo tiêu chí NTM, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, thể thao của cán bộ và nhân dân trên địa bàn huyện.
Toàn huyện đã có 21/40 trường đạt chuẩn quốc gia, 599/689 phòng lớp học đạt kiên cố với kinh phí đầu tư hàng trăm tỷ đồng. Từ khi XDNTM, chất lượng cuộc sống người dân ngày càng được nâng cao. Đến nay, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt trên 82,5%. Hàng nghìn hộ nghèo và hộ gia đình chính sách trong huyện được hỗ trợ xây dựng nhà mới.
Video đang HOT
Giai đoạn 2016-2020, huyện sẽ chỉ đạo các xã tiếp tục phấn đấu tăng thêm các tiêu chí, duy trì và giữ vững các tiêu chí đã đạt, đẩy mạnh phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa. Đặc biệt, huyện tập trung hỗ trợ người dân sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tăng thu nhập. Đến năm 2020, huyện Lạc Thủy đặt ra mục tiêu sẽ đạt bình quân 17,9 tiêu chí/xã, trong đó có 7 xã về đích NTM. Huyện phấn đấu nâng tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh 94%; tỷ lệ hộ nghèo dưới 6%; thu nhập đầu người đạt 50 triệu/người/năm.
Dự kiến, tổng nguồn lực cho XDNTM giai đoạn 2016 – 2020 khoảng 2.460 tỷ đồng, gồm các nguồn vốn: Ngân sách Nhà nước trực tiếp cho chương trình XDNTM; Ngân sách Nhà nước đầu tư lồng ghép từ các chương trình, dự án; tín dụng; từ cộng đồng dân cư; từ các tổ chức, doanh nghiệp và nguồn lực khác.
Theo Danviet
Tạo thế lực kích cầu nông thôn mới
Mường La là huyện đặc biệt khó khăn của tỉnh Sơn La. Đồng bào các dân tộc nơi đây vừa trải qua một cuộc đại di dân, dành phần lớn đất đai, vườn tược, ruộng nương để xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La.
Trong khó khăn ấy, Mường La vẫn bứt phá vươn lên tạo dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Trang Trại Việt đã có buổi phỏng vấn ông Nguyễn Đức Thành - Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện xung quanh vấn đề ổn định đời sống dân cư và xây dựng NTM.
Mường La là huyện đặc biệt khó khăn, nhưng đã nỗ lực trong xây dựng NTM, xin ông cho biết một số kết quả nổi bật của huyện đã đạt được?
- Như nhiều người đã biết, Mường La là một trong những huyện nghèo của cả nước, nên xuất phát điểm để xây dựng NTM không cao. Nhưng NTM là một trong những chương trình rất quan trọng với tam nông mà Mường La thì bao đời nay nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo. Bởi thế, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân đều tập trung xây dựng NTM với quyết tâm cao.
Đến nay, chúng tôi đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, đã tạo những nền móng rất quan trọng cho các bước tiếp theo. Huyện đã có 1 xã đạt được 12 tiêu chí và cơ bản hoàn thành 2 tiêu chí khác. Có 5 xã đạt từ 7-10 tiêu chí. Số xã còn lại tuy nằm trong diện đặc biệt khó khăn nhưng cũng đã đạt từ 5 tiêu chí trở lên và đang dốc sức phát huy kết quả để tăng trưởng nhanh và bền vững.
Người dân bản Mường Bú (xã Mường Bú, huyện Mường La) chung sức làm đường nông thôn. Ảnh: Trọng Đạt
Ông chia sẻ rằng, những kết quả đó cũng chưa thật sự như mong muốn, vậy những khó khăn lớn nhất tạo "rào cản" trong xây dựng NTM của huyện Mường La là gì, thưa ông?
- Nói đến khó khăn của một huyện nghèo thì nhiều lắm mà gắn vào những tiêu chí NTM thì lại càng nan giải hơn bởi đó là một qui chuẩn ở mức cao so với nông thôn miền núi. Đặc biệt, Mường La lại là huyện trong mấy thập kỷ vừa qua đã có tới 2 lần bị ảnh hưởng bởi những Dự án thủy điện lớn của đất nước là thủy điện Hòa Bình và thủy điện Sơn La.
Với một địa bàn thuần nông, việc di dời - tái định cư dành đất ở và sản xuất cho những lòng hồ thủy điện đồng nghĩa với việc phải rời xa những yếu tố thuận lợi nhất để ổn định đời sống và sản xuất. Việc di dời ấy cũng gây ra những khó khăn khác như: Bố trí, sắp xếp ổn định dân cư, đội ngũ cán bộ, thiết chế văn hóa, y tế, thể thao... Đặc biệt là với cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống và sản xuất bị ảnh hưởng rất lớn. Điều ấy đòi hỏi phải có một quá trình và sự đầu tư ngân sách và sức lực, trí tuệ rất lớn thì mới mang lại sự ổn định để tạo đà cho phát triển...
Những khó khăn này đã tác động đến chương trình xây dựng NTM tại địa phương như thế nào?
- Nói một cách đơn giản, khi thực hiện di dân tái định cư tức là bắt đầu một cuộc sống mới trên một vùng đất mới với những mối quan hệ mới. Mỗi người dân phải quen dần với nơi chuyển đến, quen với khí hậu, thời tiết, địa hình, nếp sống, nếp canh tác, điều kiện đáp ứng các nhu cầu sống, sinh hoạt và sản xuất cũng như học tập, bảo vệ sức khỏe...
Vì thế, trên vùng quê mới luôn có những khó khăn mà người dân chưa quen hoặc chưa đủ khả năng để điều chỉnh trong khi Nhà nước thì chưa kịp đầu tư hoặc đầu tư chưa thỏa đáng, chưa kịp nâng cấp. Ví dụ khi đang ở dưới vùng đất trũng, bà con các dân tộc quen canh tác lúa nước cùng với hệ thống hạ tầng sản xuất, điều kiện khí hậu quen thuộc. Nhưng khi thực hiện di dân lên chỗ cao hơn để dành vùng thấp cho lòng hồ thủy điện thì bà con nông dân phải làm quen với việc canh tác trên nương, đất khan hiếm nước; thậm chí thay đổi hẳn loại cây trồng như từ lúa, ngô, khoai sang cây công nghiệp như: Chè, cà phê, mía đường... quá trình thay đổi nếp sống, nếp canh tác ấy phải có một thời gian hợp lý thì mới cho hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Nuôi cá tầm trên hồ thủy điện Sơn La. ảnh: Trọng Đạt
Như vậy, Mường La đã có những giải pháp như thế nào để hóa giải thách thức đó?
- Đúng là thách thức rất lớn, nhưng chúng tôi cũng xác định rằng đây cũng là thời cơ, cơ hội để chúng tôi phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, bền vững hơn.
Theo ông, để biến khó khăn thành cơ hội, Mường La sẽ ưu tiên đặc biệt cho mục tiêu nào?
- Là huyện đặc biệt khó khăn, bởi thế khi xây dựng NTM thì mục tiêu nào cũng thấy cần được quan tâm, cần được ưu tiên thực hiện. Nhưng chúng tôi phải tính tới các yếu tố tạo được lợi thế tăng thu nhập, cải thiện đời sống người dân là ưu tiên hàng đầu. Ví dụ như với địa bàn trồng lúa nước ở các xã như: Nậm Păm, Pi Tong, Mường Bú thì công trình thủy lợi sẽ được ưu tiên triển khai trước.
Với những địa bàn vùng cao như: Ngọc Chiến, Chiềng San, Chiềng Hoa... thì yếu tố cứng hóa giao thông lại được ưu tiên. Song song với quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng là những ưu tiên trong quá trình đầu tư chuyển đổi nhận thức như đưa khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư vào để nâng cao trình độ sản xuất hàng hóa cho người dân; thu hút đầu tư để tạo nhiều bứt phá trong nông nghiệp. Khi đời sống người dân được nâng lên thì sự đồng thuận sẽ cao hơn và hiệu quả xây dựng NTM sẽ nhanh hơn. Chính sự đồng thuận ấy lại trở thành động lực lớn để xây dựng NTM.
Hiện thực hóa các mục tiêu đó, tới thời điểm này, Mường La có mô hình nào thể hiện rõ hiệu quả của sự ưu tiên đầu tư như ông vừa nói?
- Có chứ, có nhiều điển hình lắm và chúng tôi đang nhân lên để tạo thành những phong trào có ảnh hưởng rộng hơn như những mô hình nuôi cá lồng, bè ở xã Ít Ong, Nậm Păm; mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy cầm ở Mường Bú, Mường Chùm... Đặc biệt, tại xã Ngọc Chiến, với việc thu hút đầu tư và cơ chế khuyến khích phát triển thuận lợi, chúng tôi đã xây dựng được mô hình hợp tác xã rau - hoa - quả tươi rất lớn, có sự tham gia của đông đảo người dân.
Mô hình này tuy mới hình thành nhưng đã cho kết quả rất khả quan, đạt mức thu nhập tiền tỷ/1ha đất. Từ sự thành công ấy, cán bộ và người dân Ngọc Chiến lạc và hưởng ứng tích cực hơn với NTM. Chỉ trong 6 tháng đầu năm nay, toàn xã Ngọc Chiến đã cứng hóa được gần 30km đường giao thông nội xã, hoàn thành việc xây dựng nhiều công trình thủy lợi, nhà văn hóa, trường học, quan tâm hơn tới môi trường... Điều ấy cũng khẳng định rõ: Cốt lõi của NTM là thu nhập của người dân không ngừng được cải thiện, nâng cao.
Xin cảm ơn ông !
Theo Danviet
Lập Thạch lập làng xanh, nhà xanh 97% hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh, 90% hộ chăn nuôi sử dụng hầm biogas và các biện pháp bảo vệ môi trường (BVMT), 100% hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh... Tiêu chí môi trường đang được huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) đặc biệt chú trọng trong xây dựng nông thôn mới (NTM). Sạch từ nhà ra ngõ Hội viên...