Hút thuốc lá yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp và các bệnh lý tim mạch
Nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra hút thuốc lá là nguyên nhân gây bệnh ung thư phổi, các bệnh phổi mạn tính. Ngoài nguyên nhân gây các bệnh lý về hô hấp, hút thuốc lá còn tác động lên hệ tim mạch và là một trong những yếu tố nguy cơ chính của bệnh lý động mạch vành, tăng huyết áp, tiểu đường, bệnh mạch ngoại vi…
Chính các bệnh lý này lại tác động lẫn nhau gây ra vòng xoắn quẩn làm cho bệnh cảnh lâm sàng càng thêm trầm trọng. Mặt khác, hút thuốc lá còn ảnh hưởng đến nhiều cơ quan khác như dạ dày, đại tràng, khả năng hoạt động tình dục, tâm thần… Vì những tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ cộng đồng và nhờ việc truyền thông giáo dục sức khỏe của ngành Y tế và các hoạt động xã hội khác nên hiện nay, việc hút thuốc lá tại các nước phát triển đã giảm nhiều trong khi đó thì hút thuốc lá lại gia tăng ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước châu á trong đó có Việt Nam.
Hút thuốc lá gây ra nhiều bệnh tật, trong đó có các bệnh tim mạch.
Mối liên quan giữa hút thuốc lá và các bệnh lý tim mạch.
Chỉ riêng hút thuốc lá cũng đã là một yếu tố nguy cơ độc lập, quan trọng gây ra các bệnh lý tim mạch. Nhưng khi hút thuốc lá ở những người có kèm theo các nguy cơ khác như tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ máu, béo phì hoặc người có yếu tố gia đình bị bệnh tim mạch thì tác hại của thuốc lá sẽ gấp lên rất nhiều lần chứ không chỉ đơn thuần là tác dụng cộng. Mặt khác, các nhà nghiên cứu trên Thế giới cũng chỉ ra rằng Nicotine chỉ là một trong 4000 thành phần có hại tìm thấy được trong thuốc lá. Do vậy, những loại thuốc được quảng cáo có lọc Nicotine cũng không làm giảm đáng kể nguy cơ đối với bệnh tim mạch.
Như vậy, hỳt thuốc lá gây hại tim mạch như thế nào?
Tác động tức thời của hút thuốc lá
Khi hút thuốc lỏ, ngay lập tức làm tăng nồng độ chất Cathecholamine trong máu (đây là chất nội tiết có vai trò kích thích hệ thống thần kinh giao cảm của cơ thể) và tăng chất carbon monoxid. Các chất này có thể làm khởi phát những cơn đau ngực hoặc làm nặng thêm bệnh tim khác. Mặt khác, nồng độ Nicotine tăng trong máu cũng gây co mạch, tăng huyết áp, tăng nhịp tim làm tim phải làm việc nhiều hơn hoặc cũng có thể gây ra những rối loạn nhịp tim. Các nghiên cứu cũng cho thấy, mức độ ảnh hưởng đến tim mạch cũng tăng theo mức độ hút thuốc lá, tức là càng hút nhiều hút lâu, nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng cao.
Hút thuốc lá gây vữa xơ động mạch
Video đang HOT
Hút thuốc lá làm tăng nhanh quá trình vữa xơ động mạch từ đó gây ra các bệnh lý tim mạch như: Tăng huyết áp, bệnh động mạch vành, tai biến mạch não, bệnh động mạch ngoại vi… Hút thuốc lá gây ra vữa xơ động mạch theo nhiều cơ chế: Trước hết nó làm tăng nồng độ chất carbon monoxid (một chất có nhiều trong thuốc lá), là chất làm tổn thương sự toàn vẹn mềm dẻo của lòng mạch tạo điều kiện cho hình thành nhanh mảng xơ vữa Hút thuốc làm giảm chất HDL-cholesterol (cholesterol có lợi) và làm tăng nồng độ LDL-cholesterol (cholesterol có hại) và tăng triglycerid (mỡ máu) gây tăng tình trạng vữa xơ động mạch. Thêm vào đó, hút thuốc cũng làm tăng khả năng đông máu vì vậy sẽ dễ hình thành cục máu đông trên cơ sở mảng xơ vữa. Cuối cùng, có thể gây nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ não. Hút thuốc cũng làm cho lớp tế bào nội mạc mạch (lớp tế bào lát trong thành mạch) bị tổn thương, mất tính trơn nhẵn đàn hồi, từ đó sẽ dễ dàng hình thành mảng xơ vữa dưới lớp nội mạc.
Các nghiên cứu cho thấy, khi dừng hút thuốc lá làm tăng nồng độ chất HDL-cholesterol và giảm chất LDL-cholesterol và làm giảm tốc độ hình thành xơ vữa động mạch.
Bỏ hút thuốc lá có lợi gì?
Tốt nhất là không hút thuốc vì những lợi ích của việc không hút thuốc lá như đã nói ở trên..
Vấn đề đặt ra là đối với những người đã hút thuốc rồi thì việc bỏ hút thuốc có lợi ích như thế nào? Trong một tổng kết các nghiên cứu theo dõi lâu dài của việc bỏ hút thuốc so với những người vẫn tiếp tục hút thuốc lá được đăng tải báo cáo sức khoẻ của Hoa kỳ năm 1995 qua 16 năm theo dõi cho thấy: những người bỏ hút thuốc lá đã làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch của họ một cách đáng kể so với người tiếp tục hút. Đặc biệt nguy cơ này giảm chỉ còn 1,3 so với 2,0 lần ở người hút thuốc lá nhiều đã bỏ so với những người không bỏ hút thuốc lá. Bên cạnh đó, việc bỏ hút thuốc lá ở người chưa từng có biểu hiện của bệnh tim mạch sẽ giảm nguy cơ bệnh tim mạch về sau một cách rất rõ ràng. Còn đối với người đã bị bệnh tim mạch thì việc bỏ hút thuốc lá làm giảm nguy cơ tái phát bệnh hoặc làm nặng bệnh.
Ở những người đã hút thuốc lá trong một giai đoạn dài (nhiều chục năm) thì khi bỏ hút thuốc lá vẫn có lợi ích đối với việc giảm nguy cơ của bệnh tim mạch. Việc bỏ hút thuốc lá thậm chí còn có lợi ích giảm đàng kể tỷ lệ bệnh tim mạch ngay trong nững ngày đầu tiên. Theo báo cáo của Ban sức khoẻ Hoa kỳ về lợi ích của bỏ hút thuốc lá năm 1990, việc bỏ thuốc lá đã làm giảm đi một nửa các biến cố bệnh tim mạch trong năm đầu và sau khi bỏ 10 năm thì nguy cơ chỉ còn gần tương tự như ở người chưa từng hút thuốc.
Một số người hút thuốc lá lo ngại rằng: khi bỏ thuốc lá sẽ làm tăng cân và như vậy có ảnh hưởng ngược lại đến sức khoẻ không? Việc tăng cân này là do khi bỏ hút thuốc lá người ta thấy ngon miệng hơn hoặc thường thấy cần phải ăn uống gì đó để quên đi cảm giác hút thuốc lá. Thêm vào đó chuyển hoá sẽ tăng khi có Nicotine và khi ngừng hút thuốc lỏ thì chuyển hoá cơ thể sẽ giảm đi. Tăng cân ở người đang thiếu cân thì càng tốt cho sức khoẻ, còn đối với người đang thưa cân mà tăng cân thì chúng ta đã biết: lợi ích của bỏ hút thuốc lá sẽ là rất vượt trội nếu so với việc tăng cân tức thời ngay sau khi bỏ hút thuốc lá. Hơn nữa, chúng ta còn có kế hoạch giảm cân sau khi bỏ hút thuốc lá như: ăn uống cáo khoa học, tập thể lực đều đặn hàng ngày, làm việc điều độ…vì vây chúng ta không cần phải suy nghĩ, băn khoăn nhiều và hãy ngừng hút thuốc lá càng sớm càng tốt.
Vấn đề hút thuốc lá bị động
Bản thân người hút thuốc lỏ không chỉ gây hại cho chính mình mà còn gây hại cho những người xung quanh như gia đình, bè bạn, đồng nghiệp, nơi công cộng… Những người bị ảnh hưởng này gọi hút thuốc lá bị động. Khi hút thuốc các chất độc không phải là được đốt cháy toàn bộ, hơn nữa khói thuốc lá sẽ phát tán các chất độc như carbon monoxid, nocotine… Chất cotinine, một chất chuyển hoá của nicotine có thể qua rau thai dễ dàng gây ảnh hưởng đến thai nhi nếu người mẹ có hút thuốc lá. Những đứa trẻ mà có bố mẹ hút thuốc lá dễ bị cảm lạnh, viêm đường hô hấp hơn. Phụ nữ hút thuốc lá mang thai dễ xảy thai, đẻ non, hoặc trẻ đẻ thiếu cân. Nhiều nghiên cứu cho thấy: hội chứng đột tử ở trẻ nhỏ – hoặc chết trong nôi (SIDS) xảy ra nhiều hơn ở trẻ có mẹ hút thuốc khi mang thai.
Trước đây, nhiều nghiên cứu mới chỉ đề cập đến khả năng có thể gây ung thư phổi cao hơn ở người hút thuốc bị động. Nhưng những nghiên cứu sau đó đã chỉ ra rằng: hút thuốc lá bị động cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch đáng kể (tới 30% so với người không tiếp xúc với người hút thuốc). Trong số đó, hút thuốc lá bị động ở công sở cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch đến 4 lần và nếu ở gia đình thì còn làm tăng lên nhiều nữa. Vấn đề cũng rõ ràng là nếu người hút thuốc lá bị động mà tránh khỏi được môi trường thuốc lá thì cũng giảm được nguy cơ mắc bệnh đáng kể như người hút thuốc lá bỏ hút thuốc lá vậy.
Theo SKDS
Ngừa bệnh động mạch vành ở người cao tuổi
Càng có tuổi thì nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và chuyển hóa trong đó có bệnh động mạch vành (ĐMV) ngày càng tăng lên.
Có đến 1/3 số bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp bị tử vong trong vòng 24 giờ kể từ khi bị đau ngực và rất nhiều bệnh nhân còn sống sót có di chứng trầm trọng. Tuy nhiên, có thể phòng ngừa sự phát triển bệnh ĐMV (phòng ngừa tiên phát) hoặc làm giảm nguy cơ bị NMCT cấp ở các bệnh nhân đã mắc bệnh ĐMV (phòng ngừa thứ phát) bằng cách làm thay đổi các yếu tố nguy cơ gây bệnh.
Phòng ngừa tiên phát bệnh ĐMV
Các nguy cơ chính gây bệnh ĐMV là hút thuốc lá, thừa cân, tiền sử gia đình có người mắc bệnh ĐMV sớm (nam giới dưới 55 tuổi, nữ giới dưới 65 tuổi), rối loạn lipid máu, đái tháo đường và tăng huyết áp. Các bác sĩ cần phát hiện và đánh giá tình hình kiểm soát các yếu tố nguy cơ chính của bệnh ĐMV cho tất cả các bệnh nhân theo định kỳ (3-5 năm). Nguy cơ mắc bệnh ĐMV nên được tính toán cho các bệnh nhân có từ 2 yếu tố nguy cơ chính trở lên để đưa ra chiến lược phòng ngừa tiên phát phù hợp. Phòng ngừa bằng aspirin có thể gây ra các biến chứng chảy máu và chỉ nên sử dụng aspirin để phòng ngừa tiên phát ở các bệnh nhân có nguy cơ cao.
Cần kiểm soát bệnh lý tim mạch để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Phòng ngừa thứ phát
Thay đổi lối sống: Trước khi ra viện, các bệnh nhân NMCT cấp cần được giáo dục về sức khỏe, các hoạt động thể lực, thay đổi lối sống và việc dùng thuốc để phòng ngừa thứ phát các bệnh tim mạch. Bệnh nhân và gia đình cần được hướng dẫn trước khi ra viện về các triệu chứng thiếu máu cơ tim, gọi xe cấp cứu khi các triệu chứng thiếu máu cơ tim tái phát và không giảm đi hay trở nên trầm trọng hơn 5 phút sau khi ngậm 1 viên nitroglycerin dưới lưỡi, để đảm bảo chắc chắn là bệnh nhân sẽ được chẩn đoán và điều trị sớm khi bệnh tái phát. Các bệnh nhân có triệu chứng của NMCT cấp (đau thắt ngực có hoặc không lan ra tay, lưng, cổ, hàm, hay thượng vị khó thở mệt vã mồ hôi buồn nôn choáng váng) nên được đưa đến bệnh viện bằng xe cấp cứu hơn là bởi người nhà hay bạn bè, vì các nhân viên y tế có thể can thiệp kịp thời các thủ thuật có thể cứu sống bệnh nhân (hồi sức tim phổi, sốc điện chuyển nhịp) khi cần thiết. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân NMCT cấp có thể giảm đi một cách có ý nghĩa nếu bệnh nhân và người nhà sớm nhận ra triệu chứng và gọi cho trung tâm cấp cứu, nhờ vậy bệnh nhân sẽ nhận được sự giúp đỡ của nhân viên y tế sớm nhất.
Kiểm soát trọng lượng cơ thể: Chỉ số khối lượng cơ thể trung bình là 18,5 - 22,9 kg/m2. Nếu vòng bụng trên 90cm ở nam giới và trên 80cm ở nữ giới có thể dẫn đến hội chứng chuyển hóa và cần phải giảm cân.
Bỏ hút thuốc lá: Ngừng hút thuốc lá là một yếu tố quan trọng nhất giúp bệnh nhân có thể làm giảm nguy cơ bị tái phát NMCT. Hút thuốc lá làm giảm nồng độ ôxy trong máu, làm tổn thương và suy yếu thành động mạch. Lợi ích của việc ngừng hút thuốc lá gần như đạt được tức thì. Ngay khi bệnh nhân ngừng hút thuốc, nguy cơ tái phát bệnh bắt đầu giảm xuống. Sau 5 năm cai thuốc lá, nguy cơ bị NMCT tái phát sẽ giảm đi một nửa so với trường hợp bệnh nhân tiếp tục hút thuốc.
Kiểm soát các bệnh có liên quan
Huyết áp: Cần kiểm soát huyết áp dưới 140/90mmHg (dưới 130/80mmHg ở bệnh nhân tiểu đường hay bệnh thận mạn tính) bằng thuốc và thay đổi lối sống. Thay đổi lối sống (giảm cân, thay đổi chế độ ăn, tăng hoạt động thể lực và ăn nhạt) nên thực hiện cho tất cả các bệnh nhân có huyết áp lớn hơn hoặc bằng 120/80mmHg. Không nên dùng thuốc chẹn kênh canxi nhóm dihydropyridin có tác dụng ngắn để điều trị tăng huyết áp (THA). Các bệnh nhân THA nên có một chế độ ăn ít muối và nhiều rau, hoa quả và các chế phẩm ít chất béo, cũng như có một chương trình tập thể dục đều đặn. Hầu hết các bệnh nhân cần hơn một thuốc để kiểm soát được trị số huyết áp và nên lựa chọn các thuốc đã được chứng minh là có làm cải thiện tiên lượng của bệnh nhân (thuốc lợi tiểu nhóm thiazid được lựa chọn đầu tiên, nên phối hợp với các thuốc chẹn bêta giao cảm, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn thụ thể AT1 angiotensin và thuốc chẹn kênh canxi có tác dụng kéo dài).
Đường huyết: Kiểm soát chặt đường huyết bằng insulin hay thuốc hạ đường huyết uống và chế độ ăn để đạt HbA1C
Rối loạn lipid máu: Nên khuyên các bệnh nhân ăn chế độ có chứa ít cholesterol, ít chất béo bão hòa, nhiều chất xơ hòa tan được, nhiều rau và hoa quả. Các thuốc statin đã được chứng minh là biện pháp can thiệp bằng thuốc có hiệu quả nhất. Nồng độ lipid mục tiêu phụ thuộc vào nguy cơ cơ bản của bệnh nhân. Đối với các bệnh nhân có nguy cơ cao nên điều trị rối loạn lipid máu tích cực để đạt nồng độ LDL-C mục tiêu dưới 70mg/dL.
Hormon liệu pháp: Hormon liệu pháp với estrogen phối hợp với progestin không nên sử dụng cho các bệnh nhân mới bị mãn kinh sau NMCT cấp như là một biện pháp phòng ngừa thứ phát các biến cố bệnh ĐMV. Các bệnh nhân mãn kinh đã sử dụng thuốc tại thời điểm bị NMCT cấp không nên tiếp tục dùng thuốc. Tuy nhiên, các bệnh nhân đã sử dụng thuốc 1-2 năm muốn tiếp tục sử dụng thuốc vì các chỉ định khác nên cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích mang lại từ việc sử dụng thuốc. Hormon liệu pháp không nên dùng tiếp tục khi bệnh nhân phải nằm dưỡng bệnh tại giường.
Hoạt động thể lực: Các bệnh nhân hồi phục sau NMCT cấp nên tập thể dục 30 phút mỗi ngày hay ít nhất 5 lần/tuần (đi bộ, đi xe đạp, hay các hoạt động thể lực khác), đồng thời tăng các hoạt động thông thường hằng ngày (làm vườn, làm công việc nội trợ).
Chống ôxy hóa: Các vitamin chống ôxy hóa như vitamin E, C không nên sử dụng cho bệnh nhân hồi phục sau NMCT cấp để phòng ngừa thư phát các bệnh tim mạch.
Theo SKDS
Ung thư phổi chữa được không? Ba chồng tôi bị đau tức ở vùng ngực bên trái, đau lưng, khó thở và ho nhiều vào xế chiều và ban đêm, có một cục hạch di chuyển nhiều chỗ trên cơ thể. Ông đi chụp phim thì thấy bên ngực phải một nửa phía trên có màu trắng, BS chẩn đoán ba tôi bị ung thư phổi giai đoạn cuối....