Hủ tục trẻ sơ sinh theo mẹ sống bìa rừng
Đứa trẻ mới sinh còn đỏ hỏn đã phải theo mẹ ra túp lều ngoài bìa rừng sống. Đối mặt với sự cô đơn nơi rừng sâu núi thẳm, chống chọi với mưa gió bão bùng và nằm cạnh kiến, rệp, bọ chó, người mẹ chỉ biết ngẩng mặt lên trời mà than.
Thương mẹ trẻ, xót con thơ
Trên cao nguyên đá Mèo Vạc (Hà Giang), người Giáy tập trung nhiều nhất ở xã Nậm Ban với 495 hộ, 2.378 nhân khẩu (chiếm 70% dân số). Dân tộc Giáy từ lâu đời đã hình thành một hủ tục bị cho là tàn nhẫn.
Khi người con gái chửa hoang hoặc quan hệ tình dục trước hôn nhân thì ngay sau khi “vượt cạn”, người mẹ phải lập tức bế đứa con còn đỏ hỏn của mình ra căn lều ngoài bìa rừng (do người nhà dựng sẵn) để nuôi dưỡng. Trong thời gian 1 tháng ở lều, người thân của sản phụ có thể đến lều chăm sóc nhưng không được ngủ lại.
Khi được nghe những cô giáo mầm non ở xã Tát Ngà kể chuyện về một đồng nghiệp của mình là Vàng Thị Tư (25 tuổi, một người dân tộc Giáy ở xóm Pác Làng, xã Nậm Ban) đang phải chăm con ngoài lều, tôi vừa kinh ngạc vừa chua xót.
Căn lều nơi mẹ con Tư đang trú ngụ nằm chênh vênh giữa lưng đồi Pác Làng. Trông nó giống như căn chòi giữ ruộng của lão nông trồng dưa trong phim Tây Du Ký. Nó bé xíu. Mái lều lợp bằng cỏ tranh mỏng tang. Chưa mưa đã thấm. Bốn cột trụ dùng bằng tre. Tứ phía che chắn tạm bợ.
Tư kiểm tra vết kiến đốt trên cơ thể con gái
Mặt ngăn bằng những phên nứa đan vội, kẽ hở huếch hoác. Mặt treo hai tấm chiếu rách. Mặt căng tấm bạt xanh. Mỗi khi có gió thổi, tấm chiếu lại rung lên bần bật, còn tấm bạt bị đẩy vào, kéo ra kêu ràn rạt.
Phía bên trong, những “kỹ sư” xây dựng lều đã đặt một bè tre rộng khoảng 2 m2 để hai mẹ con Tư nằm. Xung quanh giường được căng màn ngăn không cho rắn rết, chuột bọ, ruồi muỗi lọt vào.
Nhưng, nỗi bất an của người mẹ trẻ chưa bao giờ vơi cạn. “Sợ lắm anh ạ. Phụ nữ khi cho con bú thường vương sữa ra ngoài nên thu hút kiến. Chốc chốc em lại bị cắn. Con em còn bị nhiều hơn, giờ chân tay nó đầy nốt. Chắc vì đau quá nên nó quấy khóc liên hồi”, Tư kể.
Ngồi được một lúc, cả ba cô giáo trường mầm non Tát Ngà đi cùng tôi đều nổi mẩn ngứa vì bọ chó cắn. Mấy chị thi nhau gãi sồn sột, còn tôi thì ngứa râm ran nhưng vẫn cố chịu đựng vì ngại.
Video đang HOT
Ngay cạnh gường nằm là một khoảng đất trống rộng cỡ 2 m2. Ở đó bày một chiếc mâm chất đầy bát đũa, kế bên là bếp củi để Tư đun nước tắm rửa cho con. Mỗi lần châm lửa, khói bay nghi ngút khắp căn lều. Mùi tro sặc sụa. Bé gái mới sinh chốc chốc lại ho khàn khạt. Tư bảo: “Em còn có phần may mắn vì gia đình chuẩn bị từ trước, chứ có người còn không có lều, phải căng tạm bạt để ở cơ. Nghĩ mà chua xót”.
Nạn nhân của hủ tục
Cũng như nhiều cô gái Giáy khác ở Nậm Ban, cuộc đời của Tư khổ về đường hôn nhân. 7 năm trước, khi đang học cấp 3 ngoài huyện Mèo Vạc, bố mẹ Tư đánh điện gọi con về lấy Phong (một người cùng xã).
“Người chồng sắp cưới của mình là ai? Hình hài thế nào mắt chưa từng ngó. Con người chứ có phải là cái máy đâu mà ép duyên được hở trời! Thế nên em phản kháng dữ dội lắm anh ạ. Em bảo, bố mẹ muốn cưới thì cưới, con nhất quyết không về. Bố em gằn giọng: Thì tao đã nhận sính lễ của người ta rồi đấy thôi. Giờ muốn trả cũng không được”, Tư kể.
Căn lều hai mẹ con Tư sống
Cuối cùng Tư vẫn phải về làm dâu nhà Phong. Nhưng, tréo ngoeo thay, cảnh tình của Phong cũng hệt như Tư, đều bị người lớn cưỡng ép sắp đặt mà không hề hay biết. Vợ thờ ơ, chồng lạnh nhạt.
Cuộc sống của Tư và Phong giống như hai con rô-bốt. Người này về nhà thì người kia ra ngoài. Chồng nằm giường vợ ngồi ghế. Chán quá, Phong quyết tâm đi xuất khẩu lao động sang Malaysia liền 6 năm không về. Tư ở nhà tiếp tục học hết cấp 3, rồi thi đậu vào trường Cao đẳng Mầm non tỉnh Hà Giang. Cách đây hơn một năm, khi Phong về thì cả 2 quyết định ly hôn để giải thoát cho nhau.
Chia tay chồng cũ, Tư đến với Đức bằng thứ tình yêu nồng nhiệt, chân thành. Đức cũng đáp lại bằng sự ân cần, chiều chuộng. Mối tình của họ tiến triển nhanh đến độ cả hai đi đến quyết định “vượt qua giới hạn” trước hôn nhân.
Và sự “quá giới hạn” của họ đã bị tục lệ dân tộc bắt tội như những gì đã kể. Biết mình đã làm sai, Tư phần nào cảm thấy xấu hổ. Vì thế, dù biết đây là một hình phạt quá hà khắc và nhẫn tâm (không chỉ với cô mà cả đứa con của mình), nhưng cô không dám chống lại.
Khi tôi mở những tấm hình về căn lều rách nát mà mẹ con Tư đang sống cho ông Lý Văn Hinh (trưởng trạm y tế xã Nậm Ban) xem, ông khẳng định: “Một môi trường sống như vậy chắc chắn là không thể đảm bảo cho sức khoẻ của đứa trẻ sơ sinh”.
Ông Nguyễn Quốc Huy, Chủ tịch UBND xã Nậm Ban, chia sẻ thẳng thắn: “Đây là một hủ tục lạc hậu. Bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền được sinh dưỡng của những đứa trẻ vô tội. Khi tôi mới đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND xã năm 2008, không ít gia đình bắt con gái của mình ra lều chăm con.
Tôi đã cùng cấp uỷ chính quyền ra sức vận động, thuyết phục, thậm chí dùng biện pháp mạnh để buộc cha mẹ của họ cho sản phụ và đứa trẻ sơ sinh về nhà. Ví như trường hợp con gái của ông Nùng Bổ Sung (xóm Nà Hin) cách đây 5 năm trước. Khi vào căn lều của con gái ông Sung, tôi thấy thương tâm lắm. Một cái lều tre, tứ phía căng bạt kín mít.
Đồng nghiệp đến thăm mẹ con Tư
Giường chỉ được kê bằng tấm ván để hai mẹ con nằm ngủ. Tuy vợ chồng ông Sùng vẫn ngày ngày tiếp tế cơm cho con nhưng đó không phải là môi trường để đứa trẻ mới chào đời 3 ngày tuổi có thể phát triển tốt được.
Tôi đã thuyết phục ông Sùng đến mỏi miệng để ông đồng ý cho con mình được về nhà nhưng ông phản kháng dữ lắm. Nhất quyết không cho con vào nhà để bắt phạt. Cuối cùng, cấp uỷ phải dùng biện pháp răn đe ông mới chịu nghe lời.
Khi tôi gặp Tư tại lều, hai mẹ con của cô đã ở đây được 38 ngày. Cô bảo 2 ngày nữa là được về nhà bố mẹ đẻ rồi. Bởi vậy, vừa viết những dòng này, tôi vừa thầm chúc mừng cho họ đã thoát hoàn toàn cảnh sống tạm bợ, bẩn thỉu.
Đến nay, trường hợp bố mẹ bắt con gái chửa hoang ra lều ở như chị Tư rất hiếm. Năm ngoái không có trường hợp nào. Sắp tới, tôi sẽ mời các trưởng xóm lên để yêu cầu họ phải sâu sát hơn nữa với dân, từ đó báo cáo kịp thời với cấp uỷ để xử lý kịp thời. Quyết không để tình trạng này diễn tiến”.
Người Giáy còn có tục ngủ rừng. Vì điều kiện gia đình khó khăn nên học sinh học hết lớp 9 thường phải nghỉ học. Trong khi đó, sự quan tâm của bố mẹ đối với con cái còn hạn chế. Vì thế, trai gái có phần thoải mái trong yêu đương. Khi đã thích nhau, họ rủ nhau lên rừng ngủ một cách thoải mái.
Và trong những đêm trăng thơ mộng, nếu không “kiềm chế” được thì rất dễ chửa hoang. Phó Chủ tịch UBND xã Vừ Thị Mai cho biết: Năm 2012, xã Nậm Ban có 11 trường hợp tảo hôn. Tỷ lệ ly hôn cũng rất cao so với mặt bằng chung.
Theo 24h
Tục treo con lên cây: Lời người sống sót
Trong những ngày lang thang tìm hiểu về tục bỏ con của người Dao tiền ở Xuân Sơn - Tân Sơn - Phú Thọ, chúng tôi đã được nghe những câu chuyện bỏ con rùng rợn và tàn nhẫn nhất. Những đứa trẻ bị treo trên ngọn cây phần nhiều đã mủn ra thành nắm đất, đã ở lại vĩnh viễn với rừng già và "siêu sinh" ở một kiếp khác.
Thế nhưng, cũng có những đứa trẻ đã sống sót kỳ diệu rồi trở về từ ngọn cây. Chị Triệu Thị Thương (SN 1986) là một dấu chấm cảm kỳ lạ bước ra từ câu chuyện kinh hoàng ở vùng núi Tân Sơn heo hút. Sự sống sót và cuộc đời của chị Thương vừa đẹp lạ lùng, vừa chua xót đến nghẹt thở.
Nhét nắm lá rừng vào miệng cho khỏi khóc rồi treo lên cây
Ở bản Cỏi, xã Xuân Sơn có bà Bàn Thị Đoàn (SN 1948) là người đàn bà giàu lòng yêu thương, lành hiền chất phác như một bà tiên làm người vậy. Từ nhỏ đã sống trong nghèo khó, túng thiếu. Lớn lên, đi lấy chồng, gia cảnh nhà chồng lại càng túng quẫn hơn vì chồng nay ốm mai đau. Bà Đoàn đã gượng sức mọn, lo việc nhà thay chồng, chăm bẵm ba đứa con nhỏ.
Thế rồi một ngày, người em đi rừng chặt nứa về hốt hoảng thông báo, trên rừng có đứa trẻ bị treo trên ngọn cây vẫn còn sống, nó cất tiếng khóc oe oe khiến cậu em tưởng mình bị ma rừng trêu ghẹo, ôm cả bó nứa còn nguyên lá chạy thục mạng về nhà. Trên đường về định thần lại mới nghĩ là người ta treo bỏ con trên rừng. Bà Đoàn nghĩ bụng, chắc nhà Ph đêm qua trở dạ sinh một đứa con gái, nó không nuôi lại đem bỏ trên rừng mất rồi, nhà mình đã có ba đứa con rồi, nhưng mới có một đứa con gái, hay mình đi lấy nó về nuôi kẻo nó chết thì khổ.
Người ta bỏ đứa bé trên ngọn cây ấy đã nửa ngày rồi. Nó ra đời lúc 3h sáng, bố mẹ nó kiên quyết không nuôi, họ đem bỏ vào giọ, đặt xuống xó nhà. Có một bà tên là Oong, đã 80 tuổi rồi, thấy thương xót, cũng muốn xin làm con nuôi nhưng nhà Ph không cho. Đến 7h sáng, họ đem con bé bỏ ra rừng. Đúng 12h trưa ngày hôm ấy, bà Đoàn mới biết chuyện, ra rừng lấy nó về.
Không ai tin được, cô gái xinh đẹp này lại đến từ ngọn cây.
Trước khi đi, bà chạy sang nhà Ph nói chuyện thủ thỉ: "Anh ơi, bây giờ em chẳng biết anh để nó ở đâu, anh đưa em đi với, để em lấy nó về, xin về nuôi". Ông Ph bảo bà Đoàn là đứa trẻ không còn gì nữa đâu, con ong, con kiến đốt thì nó làm gì còn sống nữa, nó đã thành cái hoa rừng rồi. Bà mới nói rằng: "Không, lúc nãy em cậu nó đi rừng về, nó nói rằng cháu hãy còn sống, còn khóc đấy, nó bảo em đi nhặt lấy, nhưng em lại không biết anh để ở đâu cả".
Thế rồi chính người bố đẻ của đứa bé đã đưa bà Đoàn đi lên rừng lấy nó về. Thái độ thờ ơ của ông Ph khiến bà Đoàn khó hiểu quá. Trước khi đi, ông Ph còn đủng đỉnh hút thuốc, uống nước xong rồi mới đứng lên, cầm theo con dao đi vào rừng rồi ông ta đứng ở xa, chĩa con dao lên ngọn cây rồi bảo: "Đấy, anh treo ở đấy, bây giờ anh nuôi nhiều con quá, con nào cũng lớn rồi, mà phải đi lên rừng đào củ mài củ nâu về nuôi khổ hết cỡ rồi, khổ đến chết rồi, bây giờ anh cũng không nuôi được nữa, cô mang nó về mà nuôi".
Hôm ấy là ngày 30 Tết năm 1985. Trời lạnh như cắt da cắt thịt, cái rét của rừng già thâm u càng trở nên khủng khiếp hơn bao giờ hết. Trong cái rét ghê người ấy, không ai nghĩ rằng đứa bé mà bà Đoàn vít ngọn cây mang về lại có thể sống sót sau nửa ngày trời không một miếng vải đắp thân, nằm tít trên ngọn cây cao giữa rừng như thế.
Bà Đoàn rớt nước mắt kể lại: "Lúc tôi nhặt Thương, nó ở trong cái rọ bằng nửa cái bàn này, người không có một chút quần áo nào cả, vải rách cũng không có, chỉ có 2 cái chổi lúa cùn kê ở hai đầu thôi. Cả cái dây rốn cũng vẫn còn, máu me vẫn còn. Về tôi phải tõe cái nứa ra cắt rốn cho nó. Lúc ở trong rừng, tôi phải cởi cái áo ngoài ra, trùm vào rồi ôm lấy nó. Họ bỏ nó lạnh như thế cho nó chết đi thôi. Bố nó còn đút cả cái nắm lá rừng vào mồm nó để nó không thở, không khóc được. Chả biết nó ngoáy thế nào mà nắm lá ấy lại rơi ra ngoài được. Lúc mà tôi đón nó là cái nắm lá đã gần "chín" rồi. Cháu nó cũng muốn sống, nó ngoáy được ra đấy".
Lúc mới nhặt đứa trẻ về, bà Đoàn vẫn đem nó đến cho mẹ đẻ của nó để bú sữa, nhưng nửa tháng sau, khi sữa mẹ cạn, cô bé được mẹ Đoàn nhá cơm cho ăn hằng ngày. "Ngày xưa không có máy mà nghiền bột đâu, toàn nhá cơm thôi. Có cái ghế cao như thế này thì để đầu giường đấy, với một siêu nước và một nắm cơm để đây. Cứ nắm lại bằng lá chuối đấy. Cứ khóc là lấy ra nhá cơm cho nó ăn, rồi cho nó uống nước. Toàn ăn cơm nhá thôi đấy. Không có sữa gì cả, ăn như thế mà nó vẫn lớn đấy..." - bà Đoàn kể.
Thương lớn rồi nhưng vẫn được mẹ cưng chiều nhất. Bà Đoàn thường ở nhà trông hai đứa cháu ngoại để vợ chồng Thương có thời gian đi làm.
Cô bé lớn lên trong sự chăm chút nghèo khổ, thiếu thốn, trong tình yêu thương của bố mẹ và các anh chị. Anh Triệu Văn Kế là người anh trai dành nhiều thời gian chăm bẵm cho cô em gái nhặt của mình hơn cả. Anh Kế thương em lắm, anh đặt tên cho em gái là Triệu Thị Thương. Từ đấy về sau này, ai gọi tên Thương cũng hiểu rằng, tình thương mà gia đình bà Đoàn dành cho Thương là vô bờ bến.
Chua xót "cái hoa" rụng giữa rừng già Xuân Sơn
Anh Kế nhớ lại: "Khi vít ngọn cây, đem Thương xuống, mọi người chạy lại bảo xem con bé còn sống hay đã chết rồi. Mẹ tôi lại xem, thấy em nó còn thoi thóp thở, nó thở yếu lắm rồi. Lúc lấy nó về nó lạnh lắm, lạnh như hòn đá rồi, lâu lâu mới thấy nó thở, cũng không ai dám bảo thế nào. Cuối cùng mẹ tôi vẫn mang Thương về, đốt lửa từ lúc mang về cho đến nửa đêm mà con bé chưa hết lạnh... Hơ lửa mãi, cơ thể nó cũng ấm dần lên".
Kinh hoàng thay, cũng trong cái ngày bé Thương được cứu sống từ ngọn cây, có một đứa trẻ khác đã không được may mắn như Thương. Đứa bé ấy cũng bị ruồng bỏ, bị treo lên ngọn cây nhưng với một phương cách tàn nhẫn nhất. Bố mẹ của đứa trẻ vì một lý do nào đó đã tự tay ép chết con mình. Đứa bé ấy sinh vào buổi sáng, người ta không chịu nuôi nó, cho nó vào cái rọ. Nhưng cái rọ ấy quá nhỏ, không thể nhét vừa đứa bé. Họ cố sức ấn nó vào trong ấy, ấn mạnh quá, đứa bé đã chết trước khi người ta tìm ra nó.
Bà Đoàn kể: "Đứa bé ấy sinh sau Thương nhà tôi một chút, nhưng lúc treo nó, người ta đã cố tình ấn nó mạnh quá, khiến nó chết mất. Lúc người ta tìm thấy nó, người nó đã mềm oặt ra, bị gãy hết xương ở giữa người thế này...".
Có thể, cái đói cái nghèo đã làm cho con người bỗng chốc quên đi mất cả tình thân ruột thịt. Vì đông con, thiếu ăn, vì sự mông muội một thời mà họ phải đem con bỏ vào rừng, để rồi cái hủ tục treo con cứ "bám rễ" một thời gian dài ở nơi núi rừng này. Họ vứt bỏ "máu mủ ruột rà" của mình, nhẫn tâm treo đứa con mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày của mình lên ngọn cây mà không một mảy may ân hận, thương xót. Sau này, bố mẹ của Thương thi thoảng vẫn hỏi thăm bé Thương qua quít, nhưng dường như sự quan tâm ấy làm bé Thương buồn rầu hơn.
Gia đình Thương nghèo khó nhưng đầm ấm, hạnh phúc.
Bản Cỏi nhỏ nên nhà bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi của Thương ở rất gần nhau. Có thể không chịu đựng nổi áp lực và buồn bã khi hằng ngày phải đối mặt với đứa con gái mà chính mình đã ruồng bỏ, bố mẹ đẻ của Thương đã chuyển nhà sang Sơn La. Thế mà, đến lúc lớn rồi, hiểu chuyện rồi, ngày Tết, Thương vẫn lặn lội đi tìm gặp mẹ và các chị em vì nhớ tình máu mủ. Khi gặp lại mẹ đẻ lần đó, Thương, mẹ đẻ của Thương và các chị em ai cũng khóc.
Thương nói trong nước mắt như trách móc, oán hận: "Về gặp mặt nhau như thế thì khóc để làm gì nữa. Lúc con còn nhỏ thì bố mẹ vứt con đi sao không khóc. Giờ thì khóc làm cái gì nữa...". Thương đa sầu đa cảm lắm. Lúc vẩn vơ một mình, Thương hay nghĩ ngợi về cuộc đời mình. Thương tâm sự trong nước mắt: "Em buồn lắm chứ. Em nghĩ đi nghĩ lại thấy mình khổ quá, cuộc đời mình thiệt thòi quá. Các anh chị em ruột đều được sống, con người ai cũng muốn sống mà tại sao bố mẹ lại lấy em đi treo ở trong rừng như thế. Giờ nhà nghèo, em không được đi học, không biết chữ, không biết đọc. Em thấy mình khổ quá...".
Cuộc sống của cô gái đến từ ngọn cây chưa bao giờ vợi bớt khó khăn. Thương lớn lên, kết hôn với anh thanh niên cùng bản Phùng Văn Thành. Họ sinh được hai đứa con một trai một gái, nhưng cuộc sống của họ thì bộn bề, vất vả vô cùng. Nhà không có một tấc ruộng, vợ chồng Thương phải đi làm thuê làm mướn kiếm tiền nuôi con. Lúc rỗi việc, không có người thuê thì vào rừng kiếm măng, hái rau mà bán. Đôi vợ chồng trẻ vì thương nhau nên bấu víu vào nhau mà sống. Họ luôn ao ước có thể nuôi hai đứa con học hành tử tế, để không phải sống cuộc đời cơ cực như bố mẹ chúng.
Chân dung người đàn bà tốt bụng của bản Cỏi.
Hủ tục treo con của người Dao tiền ở Xuân Sơn đã bị "bài trừ" khỏi cuộc sống hơn chục năm nay. Những bản làng xa xôi này đã không còn những đứa trẻ bị chính bố mẹ đẻ của mình đem vào rừng sâu, treo lên ngọn cây, mặc cho mưa bão rừng già quăng quật. Có những đứa trẻ may mắn được cứu sống bởi những vòng tay nhân ái như Thương, như Phúc giờ cũng đã trưởng thành trong sự đùm bọc, yêu thương của cộng đồng. Cho dù vẫn có những hệ lụy không nhỏ làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần và tương lai của những đứa trẻ ấy, nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng, họ đã là những "đứa trẻ đến từ ngọn cây" cuối cùng ở vùng núi Xuân Sơn xa xôi này.
Ông Bàn Xuân Lâm - Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn - nói bằng giọng tự hào: "Giờ người Dao bỏ cái tục đó rồi, không ai treo con nữa đâu. Vì bây giờ có kế hoạch hóa gia đình rồi. Nhà nào sinh con là Ban kế hoạch hóa gia đình nắm được hết. Nhà nào sinh con thứ ba cũng có danh sách hết rồi. Nhân dân cũng có ý thức lắm, đời sống cũng bớt khó khăn hơn trước ...".
Theo 24h
Ám ảnh tục bỏ con bằng cách treo lên cây Khủng khiếp thay, khi đẻ đứa con ra mà không muốn nuôi, họ đem vào rừng già sâu thẳm rồi treo lên ngọn cây, phó mặc sinh linh bé bỏng ấy cho thú dữ, cho rừng thiêng nước độc. Xã Xuân Sơn nằm sâu trong rừng quốc gia Xuân Sơn - huyện Tân Sơn - tỉnh Phú Thọ với hơn 50% người Dao...