Hơn 70 tuổi, nếu phạm tội nặng vẫn có thể bị tạm giam
Những trường hợp đã phạm tội là người già, yếu từ 70 tuổi trở lên có nơi cư trú, lai lịch rõ ràng thì có thể được áp dụng biện pháp miễn tạm giam.
Đây là một trong những nội dung đã được điều chỉnh trong dự án Bộ Luật hình sự (sửa đổi), thảo luận tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng nay (14/10).
Cụ thể, khi thảo luận, đa số ý kiến Đại biểu Quốc hội đề nghị bỏ quy định “không áp dụng tạm giam đối với người từ 70 tuổi trở lên”. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, thực tiễn đã xảy ra nhiều trường hợp người từ 70 tuổi trở lên còn có hành vi mua bán ma túy, giết người, hiếp dâm… việc không tạm giam đối với những trường hợp này sẽ khó khăn cho các công tác xử lý tội phạm.
Vì vậy, tiếp thu ý kiến Đại biểu Quốc hội, dự thảo luật đã bỏ quy định “không áp dụng tạm giam đối với người từ 70 tuổi trở lên” và chỉnh lý theo hướng giữ quy định hiện hành: không tạm giam đối với người già yếu nếu họ có nơi cư trú và lai lịch rõ ràng.
Bên cạnh đó, để tránh lạm dụng tạm giam đối với bị can, bị cáo, đa số các Đại biểu Quốc hội đề nghị cần cụ thể hóa căn cứ “có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử” (Điều 106).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đề nghị cụ thể hóa: “Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này”.
Bị cáo Đoàn Công Hương bị TAND tỉnh Quảng Nam tuyên phạt 5 năm tù về tội “giao cấu với trẻ em”. ảnh: Đời sống & Pháp luật.
Đề nghị Kiểm ngư được quyền điều tra
Về việc bổ sung các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35), nhiều Đại biểu Quốc hội đề nghị chỉ bổ sung Kiểm ngư là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Một số ý kiến đề nghị bổ sung cả cơ quan Thuế, Ủy ban chứng khoán nhà nước.
Theo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, do địa bàn hoạt động của cơ quan Thuế, Ủy ban chứng khoán nhà nước gần các Cơ quan điều tra chuyên trách, khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì có thể chuyển ngay tài liệu, hồ sơ cho Cơ quan điều tra nên không cần thiết phải giao cho các cơ quan này tiến hành một số hoạt động điều tra.
Riêng đối với Kiểm ngư, do tình hình tội phạm liên quan đến đánh bắt, khai thác thủy sản trên biển diễn biến phức tạp và do yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia, phù hợp với đặc thù hoạt động trên biển thì cần thiết giao cho cơ quan này tiến hành một số hoạt động điều tra.
Video đang HOT
Tuy nhiên, trong phần thảo luận, ông Đinh Trung Tụng – Thứ trưởng Bộ Tư pháp tiếp tục đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cân nhắc thẩm quyền cho phép cơ quan Thuế và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước được quyền điều tra, vì đây là hai cơ quan đặc thù và Chính phủ cũng đã có đề xuất này.
Người bị bắt không bị ép buộc đưa ra lời khai
Một trong những nội dung được quan tâm và thảo luận nhiều thời gian qua là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc nhận mình có tội.
Một số Đại biểu Quốc hội đã đề nghị quy định: Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không bị ép buộc đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc bị ép buộc phải nhận mình có tội.
Nói cách khác đó là “quyền im lặng” của người bị bắt. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến đặt ra rằng: Quyền im lặng sẽ áp dụng đến khi nào?
Trao đổi với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Đỗ Văn Đương – Ủy viên Thường trực Ủy ban Tư pháp nhận định rằng: “Quyền im lặng chỉ có thể được áp dụng cho tới khi có luật sư, chứ không thể im lặng mãi. Đồng thời cũng phải xem xét các biện pháp cần thiết vì khi đối tượng bị bắt mà có liên quan tới khủng bố lại nói rằng có quyền im lặng thì rất nguy hiểm”.
Trong phiên thảo luận sáng nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đưa ra hai phương án:
Phương án thứ nhất: “Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền “trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.
Phương án thứ hai: “Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không bị ép buộc đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc bị ép buộc phải nhận mình có tội”.
Đối với quyền của bị can đọc, ghi chép tài liệu trong hồ sơ vụ án (Điều 59), đa số Đại biểu Quốc hội tán thành với quy định: sau khi kết thúc điều tra nếu bị can có yêu cầu thì được đọc, ghi chép bản sao hoặc các tài liệu đã được số hóa trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên về phạm vi tài liệu được đọc, ghi chép thì có 2 loại ý kiến:
Loại ý kiến thứ nhất: để bảo đảm tính khả thi, cần quy định bị can được đọc, ghi chép “bản sao các tài liệu liên quan đến việc buộc tội họ”.
Loại ý kiến thứ hai: để đảm bảo tốt hơn quyền tự bào chữa của bị can, cần quy định bị can có quyền được đọc, ghi chép “toàn bộ bản sao tài liệu trong hồ sơ vụ án” hoặc “tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị: Kể từ khi kết thúc điều tra bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa khi họ có yêu cầu.
Để bảo đảm chặt chẽ khi áp dụng, các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn về trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao các tài liệu, UBTVQH đề nghị quy định: Chính phủ chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa khi họ có yêu cầu.
Ngọc Quang
Theo giaoduc
Kết hôn, ly hôn với người đang chấp hành hình phạt tù
Người đang chấp hành hình phạt tù thì một số quyền công dân sẽ bị hạn chế như không được quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu vào cơ quan quyền lực Nhà nước...
Pháp luật hình sự cũng như pháp luật chuyên ngành khác không có quy định về việc tước quyền kết hôn của người đang phải chấp hành hình phạt tù.
Kết hôn, ly hôn với người đang chấp hành hình phạt tù
Kết hôn với người đang thụ án ở tù
Việc kết hôn vốn là việc hệ trọng, việc đại sự của mỗi người. Vì bất cứ lý do gì mà việc kết hôn bị trì hoãn thì thật sự là rất đáng tiếc cho cả hai bên. Song trên thực tế những sự việc như vậy là hoàn toàn có thể xảy ra. Đơn cử như việc một trong hai bên nam nữ có dự định tiến tới hôn nhân, xong một trong hai bên bị vướng vào vòng lao lý và phải ở tù thì các quy định liên quan quy định như thế nào?
Theo quy định của pháp luật hình sự, người bị kết án tù có thời hạn buộc phải chấp hành hình phạt tại trại giam, đối với một số tội cụ thể được quy định tại BLHS thì bị tước quyền ứng cử, bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước, quyền làm việc trong các cơ quan Nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Còn đối với quyền nhân thân, trong đó có quyền tự do kết hôn, người bị tù giam không bị tước bỏ theo quy định của Bộ luật Hình sự và cũng không bị cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình (HNGĐ). Tuy nhiên, theo Điều 14 Luật HNGĐ năm 2014 và quy định tại Nghị định 158/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định thì Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Để đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
Do đó nếu một người đang thụ án phạt tù giam thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu này, nên việc tổ chức đăng ký kết hôn không thể thực hiện được.
Ly hôn với người đang thụ án ở tù như thế nào?
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, cả hai vợ chồng hoặc một bên (vợ hoặc chồng) đều có quyền làm đơn đề nghị tòa án cho ly hôn. Nếu xét thấy mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì tòa án sẽ giải quyết ly hôn cho hai bên.
Người có yêu cầu giải quyết việc ly hôn chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, tài liệu theo quy định của pháp luật về ly hôn bao gồm:
1. Đơn đăng ký kết hôn bản chính.
2. Bản sao giấy CMTND của cả hai vợ chồng.
3. Bản sao Sổ hộ khẩu của hai vợ chồng.
4. Bản sao Giấy khai sinh của con (nếu có).
5. Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản chung của hai bên). Sau đó nộp đơn yêu cầu tại TAND Quận (huyện) có thẩm quyền.
Nếu là ly hôn thuận tình từ hai phía thì có thể là TAND quận (huyện) nơi chồng hoặc vợ cư trú làm việc. Nếu là ly hôn đơn phương thì nộp tại TAND Quận (huyện) nơi bị đơn cư trú làm việc. Trong trường hợp bị đơn là người đang thụ án trong tù thì TAND Quận (huyện) nơi người đó cư trú làm việc trước khi thụ án là nơi có thẩm quyền giải quyết.
Với bị đơn đang bị thụ án thì sau khi Tòa án có thẩm quyền thụ lý đơn ly hôn thì Tòa án sẽ ủy thác cho Tòa địa phương nơi có trại giam mà người đó đang thụ án để lấy ý kiến của người đó. Sau đó sẽ tiến hành xử ly hôn vắng mặt người đang thụ án tù.
Luật gia Đồng Xuân Thuận
Theo_Đời Sống Pháp Luật
"Quyền im lặng" gây cản trở quá trình điều tra? Có ý kiến lo ngại việc thực hiện "quyền im lặng" sẽ gây khó khăn, thách thức cho hoạt động điều tra, dẫn đến bế tắc trong giải quyết vụ án. Sáng 15.9, Hội Luật gia Việt Nam tổ chức hội thảo Công nhận quyền im lặng và việc ghi âm, ghi hình trong hỏi cung - tác động đa chiều. Theo Trung...